Thứ Bảy, 31 tháng 12, 2011

ĐẠO ĐỨC CỦA PLATON

Khi nói tới triết học, người ta không thể không nói tới giá trị đạo đức của nó, tức là tìm ra những tiêu chuẩn để sống và sống như thế nào cho đúng với giá trị “con người” của mình. Plato, một nhà triết học Hy Lạp cổ đại, chào đời tại Athens vào năm 472 TCN, là đệ tự ruột của Socrates, ông bị ảnh hưởng triết học của Socrates về cái phổ biến, cái chung làm cơ sở đạo đức. Qua đó, ông đã sớm tìm ra những tiêu chuẩn ấy để sống dựa vào các tiêu chuẩn của “linh hồn” và “xã hội”. Do đó, nền đạo đức này còn có ảnh hưởng sâu đậm đến các thế hệ sau như: trường phái khắc kỷ, tân Platon, Thánh Augustino…


Chúng ta đã biết chủ thuyết hoài nghi của các nhà ngụy biện đã đưa ra sự liên kết giữa tri thức và đạo đức. Họ tin rằng tri thức là tương đối và dẫn tới hệ quả là chúng ta không thể khám phá ra bất cứ tiêu chuẩn vững bền và phổ quát nào về đạo đức. Vì vậy, các nhà ngụy biện đã có những kết luận tất yếu về đạo đức, đó là: đạo đức được hình thành do ý muốn của cộng đồng và chỉ có giá trị và quyền uy đối với cộng đồng đó; đạo đức không có tính tự nhiên, người ta chỉ vâng phục vì áp lực của dư luận, và nếu các hành vi của họ được thực hiện chỗ riêng tư thì những người “tốt” cũng sẽ không tuân theo những quy luật đạo đức; bản chất của công lý là quyền lực hay công lý thuộc về kẻ mạnh; và đời sống tốt chính là đời sống lạc thú. Để chống lại học thuyết kinh khủng này của các nhà ngụy biện, Plato đã nêu lên khái niệm của Socrates “tri thức là đức hạnh” và khai triển khái niệm này bằng cách thêm vào hai yếu tố chính là: khái niệm về linh hồn và lý thuyết về đức hạnh như một chức năng của linh hồn.

Plato mô tả linh hồn gồm có ba phần: lý trí, tinh thần và dục vọng. Trước hết, có sự ý thức về một mục tiêu hay giá trị, đây là hành vi của lý trí. Kế đến có một lực thúc đẩy hành động, đó là tinh thần, ban đầu mang tính trung lập, nhưng rồi ngã theo đường của lý trí. Sau cùng, có ham muốn những điều về thân xác, đó là dục vọng. Như ông đã minh họa hình ảnh này trong quyển Phaedrus là người đánh xe có hai con ngựa kéo, bánh xe không thể đi đâu nếu không có hai con ngựa, vì vậy cả ba phải liên kết với nhau và làm việc chung với nhau để đạt các mục tiêu chung. Cũng thế đối với linh hồn con người, lý trí hoạt động cùng với tinh thần và dục vọng, và tác động trên chúng. Lý trí phải điều khiển tinh thần và dục vọng.

Theo Plato, linh hồn có hai phần: lý tính và phi lý tính. Phi lý tính gồm hai phần: tinh thần và dục vọng. Phần lý tính được tạo dựng bởi tạo hóa – linh hồn của vũ trụ; phi lý tính được tạo dựng bởi các thần linh. Phần phi lý tính là phần không hoàn hảo, nó kéo linh hồn rơi xuống nhập vào thân xác. Vì vậy, linh hồn muốn tìm về chỗ cũ của nó, nó phải hướng thượng. Chính vì thế mà đạo đức học của Plato là đi từ trên xuống mà mình phải bắt chước. Linh hồn có một bản chất bất trị và xấu nơi những thành phần phi lý tính của nó, nguyên nhân của cái ác đã tồn tại ngay từ tình trạng tiền hiện hữu của linh hồn.

Linh hồn là hoàn hảo theo bản tính. Khi linh hồn từ bỏ thế giới hình thức nhập vào thân xác, nó đi từ thế giới cái một sang thế giới của cái nhiều. Linh hồn trôi dạt giữa biển cả rối rắm của muôn vàn sự vật và chịu tác động của mọi thứ sai lạc do bản chất lừa dối của các sự vật. Trong thân xác linh hồn cảm nghiệm cảm giác ham muốn, lạc thú, đau đớn cũng như sợ hãi và tức giận. Linh hồn cũng cảm nhận được sự yêu thích với một loạt những sự vật đa dạng từ miếng ăn đơn sơ nhất đến nếm cảm sự ngọt ngào của tình yêu, chân lý, cái đẹp thuần túy và vĩnh cửu. Thân xác như một chướng ngại vật khó chịu đối với linh hồn, tinh thần và dục vọng. Khi nhập vào thân xác, sự hài hòa ban đầu của các phần khác nhau của linh hồn tiếp tục bị đảo lộn, trí thức trước kia bị bỏ quên mà tính trì truệ của thân xác như là một chướng ngại vật khó chịu làm cản trở sự phục hồi tri thức.

Vậy làm thế nào để phục hồi đạo đức đã mất ? Plato cho rằng: Lý trí phải dành lại quyền điều khiển các phần phi lý tính của bản ngã. Chỉ tri thức mới có khả năng tạo ra đức hạnh, bởi vì chính sự ngu dốt hay tri thức sai lạc đã tạo ra cái ác. Trí thức nằm sâu trong kí ức trí khôn. Những gì linh hồn biết trước kia bây giờ nhớ lại. Nó di chuyển từ bóng tối ra ánh sáng, từ mê muội sang hiểu biết. Phải có một tác nhân bên ngoài giúp linh hồn thức tỉnh, bắt linh hồn đứng dậy, quay lại… và vươn tới ánh sáng. Khi trí khôn đi từ mức độ thấp lên cao, nó dần nhớ lại những gì nó đã biết trước đây và cần thiết phải biết để đạt sự hòa hợp nội tâm. Sự phát triển đạo đức song song với tri thức của người ấy, vì sự tăng trưởng tri thức làm gia tăng tình yêu đối với chân, thiện và mỹ (cái đẹp). Đức hạnh là tri thức, vì đó là hành trình đi tìm kiếm khôn ngoan để biết hành động nào là đúng thật sự, tri thức đích thực về những hậu quả của mọi hành vi, đức hạnh là sự hoàn thành một chức năng độc đáo.

Như thế, đức hạnh như sự hoàn thành chức năng. Đời sống tốt lành là đới sống có sự hài hòa nội tâm, an lạc và hạnh phúc. Lý trí có một chức năng và chỉ tốt khi nó hạnh động đúng. Dục vọng có chừng mực, không lấn lướt lý chí, quân bình trong lạc thú và ước muốn sẽ dẫn tới đức hạnh tiết độ. Ý chí thuộc phần tinh thần của linh hồn, giữ giới hạn và chừng mực, tránh hành động nông nỗi, trở thành sức mạnh đáng tin cậy dẫn tới đức hạnh can đảm. Lý trí không để mình bị khuấy động bởi những dục vọng dẫn tới đức hạnh khôn ngoan. Tiết độ là sự kiểm soát hợp lý các dục vọng. Can đảm là sự sai khiến hợp lý của tinh thần. Mỗi phần hoàn thành chức năng chuyên biệt của mình sẽ dẫn tới đực hạnh công bằng. Công bằng là đức hạnh tổng hợp, nó phản ánh sự đạt tới an lạc hài hòa nội tâm của con người. Điều này chỉ đạt được khi mỗi phần của linh hồn hoàn thành đúng chức năng của mình. Như vậy, công bằng là sự hài hòa bên trong linh hồn giữa ba quan năng: lý trí, tinh thần và dục vọng. Công bằng là tạo điều kiện cho con người hoàn thành chức năng của mình.

Có ba giai cấp nhà nước là sự mở rộng của ba thành phần linh hồn, gồm: triết gia-vua (vàng), giai cấp những người gìn giữ an ninh (bạc) và giai cấp thương gia cùng với các thợ thủ công (đồng). Vậy muốn có một xã hội tốt lành thì phải tạo ra một xã hội công bằng, nhưng trong xã hội có người có khả năng và có người không có khả năng. Công bằng trong xã hội chính là tạo điều kiện cho con người hoàn thành chức năng của mình. “Công bằng khi thể hiện ra đời sống chính trị thành quốc gia, cũng là sự hài hòa giữa ba thành phần xã hội: triết gia-vua, giai cấp những người gìn giữ an ninh và giai cấp thương gia cùng các thợ thủ công. Và công bằng là sự đồng thuận hoàn hảo, sự hài hòa trên dưới của cả ba: những them muốn (dục vọng) lệ thuộc vào tâm hồn (tinh thần) và tâm hồn vào lý trí, cũng như công bằng xã hội là sự hài hòa trên dưới của ba giai cấp cần thiết cho nhau: những người cai trị những chiến sĩ hay những người giữ an ninh và những người thợ thủ công làm công việc sản xuất” .

Triết học của Plato là một hệ thống triết hoc suy tâm khách quan lớn, và đầu tiên trong lịch sự triết học đã đạt đến sự hoàn chỉnh, nhất quán và triệt đệ, đặc biệt về quan niệm đạo đức. Chính nền đạo đức được xây dựng dựa trên cơ sở học thuyết linh hồn mà các trường phái sau này như: khắc kỷ, tân Plato hay thánh Augustino đã lấy làm “tiêu chuẩn” đạo đức cho chính mình.

Trường phái khắc kỷ - Epitectus
Trường phái này có quan niệm rằng con người hạnh phúc là con người biết kiềm chế các nhu cầu và ước muốn của mình. Con người có thể lãnh hội được chân lý nhờ giác quan. Luân lý là điều quan trọng nhất của con người để có được hạnh phúc. Họ cũng cho rằng hạnh phúc là chấp nhận định mệnh và làm chủ ý chí một cách dũng cảm: “tôi không tránh được cái chết nhưng lẽ nào tôi không tránh được nỗi sợ chết hay sao, tôi không thay đổi được số phận nhưng lẽ nào tôi không thay đổi được thái độ của tôi trước cái chết hay sao”. Con người có quyền lựa chọn thái độ sống trước mọi biến cố xảy ra.

Trường phái tân Platon - Plontinus
Plotinus chính là người kết hợp giữa thần bí và Thượng Đế và đề cập đến sự cứu rỗi con người. Khác với các trường phái đi trước (nghiêng về mô tả linh hồn), Plotinus đi tìm bản chất và sự cứu rỗi của linh hồn. Đối với ông triết học là nhắc nhở con người về nguồn gốc và cứu cánh của linh hồn, là giải thoát con người. Theo Plotinus, linh hồn nhập vào thân xác và bị đày đọa trong thân xác. Thượng Đế được vì như ánh sáng của mặt trời; càng xa Thượng Đế thì càng trở nên tối tăm. Thân xác là phần xa nhất của mặt trời. Dựa vào lý luận này chúng ta nhận biết được cái ác trong thế giới. Vì vậy, con người cần phải trở lại với ánh sáng của mặt trời để được giải thoát khỏi cái ác và sự dữ.

Thánh Augustino
Thật vậy, được xem như người khai mở kỷ nguyên “Trung đại”, Augustino đón nhận những ý tưởng then chốt của Plato là thế giới được mô phỏng theo khuôn mẫu hoàn hảo; con người là tạo vật hữu hạn đam mê những cái vô hạn. Con người là tội lỗi, yếu đuối cho nên đánh mất ân sủng với Thiên Chúa vì vậy con người cần phải trở về với Thiên Chúa để được cứu rỗi. Bên cạnh đó, con người có niềm vui, hạnh phúc khi sống theo sự tự do trong sự thật của Thiên Chúa, dưới ánh sáng con đường nội tâm bên trong.

Tư tưởng của Platon còn có ảnh hưởng đến các dòng tu sau này. Khi một hội dòng hay dòng tu có xu hướng đi xuống do tranh chấp, khủng hoảng hay cách sống không phù hợp thì hội dòng hay dòng tu đó lại trở về với ý niệm, tư tưởng ban đầu để canh tân. Nếu vượt qua thì họ tồn tại và phát triển; nếu không vượt qua thì sẽ bị tan rã.

Nền triết học của Plato đã để lại cho các thế hệ sau có một hướng đi mới và khai mở ra con đường để con người tim kiếm hạnh phúc. Đó chính là biết làm chủ chính bản thân của mình, lý trí phải làm chủ và điều khiển tinh thần và dục vọng. Con người muốn được giải thoát thì phải trở về với thời điểm ban đầu, tức là xuất phát lại ý tưởng ban đầu. Đạo đức học Plato giúp con người khám phá ra một cái gì đó siêu việt và thiện hảo mà con người luôn khao khát. Cái muốn vươn lên đó chính là sự thao thức của linh hồn, vì con người hay tạo vật chỉ là bản sao của cái có sẵn tuyệt đối; hay nối cách khác tạo vật hữu hạn luôn khao khát cái vô hạn như Chúa Giêsu mời gọi: “anh em hãy trở nên hoàn thiện, như cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện”(Mt 5,48).

Thứ Sáu, 9 tháng 12, 2011

PHÂN ĐỊNH THIÊNG LIÊNG

Chúng ta đang sống trong một thế giới có nền kinh tế phát triển. Thế giới đó, con người ngày càng có xu hướng chạy theo sự hưởng thụ, tham lam, ích kỷ,…mà không mấy ai nghĩ đến việc phân định con đường thiêng liêng của mình, việc hồi tâm về bản thân và suy nghĩ về câu hỏi: Tôi sinh ra từ đâu? Tôi sống ở đời này để làm gì? Sau này tôi sẽ đi về đâu? Chúa Giêsu, Đấng đã đến thế gian để chuộc tội nhân loại đã giúp chúng ta tìm kiếm ý nghĩa cuộc sống qua cuộc đời Ngài, là việc quết định đi theo Ngài để cùng Ngài đem Tin Mừng đến cho mọi người. Trong lịch sử Giáo Hội, có rất nhiều vị thánh đã từ bỏ mọi sự để bước theo Chúa Kitô vì họ nhận ra Thiên Chúa chính là cuộc sống của họ. Cũng có những vị thánh đã tìm ra chân lý và thay đổi con người cũ của mình để mặc lấy con người mới, đó chính là Chúa Kitô. Sống trong thế giới ngáy nay, mọi Kitô hữu nói chung và các tu sĩ nói riêng cần phải nhận biết và sống với con đường thiêng liêng của mình.



1. Định nghĩa phân định thiêng liêng
Phân định là một chọn lựa, một quyết định có ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của mình, người biết phân định sẽ đi theo cái tốt và tránh xa những điều xấu.
Phân định thiêng liêng là việc chọn lựa con đường nên thánh của mình vì thiêng liêng là những gì thuộc về thánh thiện. Người phân định phải có một sự khao khát tìm kiếm Thiên Chúa, nhận biết và yêu mên Chúa và xác tín rằng Chúa là Đấng mặc khải và phán dạy với một ngôn ngữ mà ta có thể hiểu được. Việc phân định không thể thực hiện được nếu không có một đời sống cầu nguyện kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa. Tất cả chúng ta được sinh ra trong tình yêu của Thiên Chúa nên mỗi người đều có ý thức, phát triển về mọi mặt. Thế nên, chúng ta phải biết nhìn lại sự lựa chọn của mình đẻ tìm kiếm thánh ý Thiên Chúa. Bài giảng trên núi về tám mối phúc thật của Chúa Giêsu là một cơ hội tốt để quan sát nội tâm của mình, điều gì tốt đẹp đối với tôi. Phân định là phân biệt mọi sự, thấy tận mắt mọi việc để chọn lựa, việc chọn lựa phải gắn liền với việc luyện tập các giác quan của mình. Trong đó giác quan thứ sáu đóng vai trò chủ đạo ( con tim, trí óc…) và để cho Thần Khí hướng dẫn. Khởi đầu công trình tạo dựng, chúng ta cũng đã biết về ý muốn của Thiên Chúa là việc tạo dựng mọi loài và con người. Khi tạo dựng mọi loài, Thiên Chúa chỉ cần phán một lời nhưng đối với con người, thì Thiên Chúa đã suy nghĩ rồi hành động và chúc lành cho con người “hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều” ( St 1,28 ). Qua đó, Thiên Chúa đã lập ra một giao ước với con người ngay từ tạo thiên lập địa. Thiên Chúa là lề luật nhưng con người lại chống lại lề luật, lịch sử dân Israel là một minh chứng cụ thể cho việc chống lại lề luật, con người thường quên Thiên Chúa và chạy theo tội lỗi. Chúng ta cũng vậy, khi đọc lại lịch sử của mình có ai mà chưa bao giờ chống lại lề luật của thiên Chúa không? Thế nên, chúng ta cần phải xác định không gian của việc phân định, tinh thần của lề luật là sống trong lời Thiên Chúa và để cho Thần Khí hướng dẫn, sống và suy nghĩ đúng với đường lối của Thiên Chúa. Kinh Thánh là cái “la bàn” tuyệt hảo nhất để chúng ta xác định được hướng đi cho mình.
a. Phút hồi tâm
Hồi tâm giúp chúng ta ý thức được sự nghèo nàn của mình, chỉ những người nghèo mới biết quý và biết ơn những món quà nhỏ nhặt nhất. Nhìn lại các hoạt động trong ngày, một lối sông, một yếu đuối nào đó chúng ta thường hay vấp phạm ; để xem trái tim mình, lãnh vực nào Thiên Chúa mời gọi mình tha thiết sửa đổi. Hồi tâm còn giúp chúng ta hối hận khi nhận biết các sai lầm của mình, thiếu can đảm, không chân thật trong việc đáp trả tiếng gọi của Chúa để xin lỗi và xin ơn tha thứ của Chúa. Chúng ta cần tìm hiểu xem tại sao chúng ta mất can đảm, mất hy vọng để cầu nguyện và nhận biết Thiên Chúa đang chờ đón chúng ta. Phút hồi tâm đưa chúng ta nhìn đến một ngày mai tươi sáng. Hồi tâm là một lối cầu nguyện cần được làm dưới ánh sáng Chúa Thánh Thần để được kết quả, hồi tâm là việc xin ánh sáng chúa soi dẫn để chúng ta có thể nhận ra Chúa có hiện diện hay vắng mặt ngày hôm đó của mình.
Hồi tâm mỗi ngày là một việc làm khác nhau. Mục đích của hồi tâm là mở cửa trái tim chúng ta cho Thiên Chúa và để Chúa Thánh Thần chiếm ngụ trái tim này mỗi ngày một sâu hơn. Hiện diện với Chúa trong ngày sẽ giúp chúng ta tìm thấy một sức lực mới để phục vụ Ngài với một niềm vui và sự bình an.
b. Niềm an ủi và sự phiền muộn
Trong cuộc sống, ít nhiều gì chúng ta cũng có những phiền muộn và cần được an ủi. Hình ảnh hai môn đệ trên đương Emmaus sau cái chết của Chúa Giêsu đã mất hết hy vọng vào một Thiên Chúa hằng sống, nỗi đau khổ của họ là không được nhìn thấy một “Vương Quốc” của một Thiên Chúa đầy quyền năng, điều này đã làm cho họ từ bỏ con đường theo Chúa mà trở về với cuộc sống trước đây của mình. Nhưng chính Chúa Giêsu đã đến và biến đổi con người của họ. Một trái tim cháy bỏng của tình yêu, họ tràn ngập tình yêu vì được biến đổi thực sự, họ được an ủi và nâng đỡ bởi ơn của Chúa. Những giọt lệ của thánh Phêrô sau khi đã chối Chúa cũng là những giọt lệ của tình yêu. Người được an ủi thiêng liêng là người sống những giây phút tăng trưởng trong đức tin, đức cậy, đức mến và sống trong Thần Khí dành trọn tình yêu cho Thiên Chúa. Vì vây, người được an ủi thiêng liêng là người nhận được ân sủng của Thiên Chúa, biết giữ mình trong sự khiêm hạ và ý thức về sự nhỏ bé bất toàn.
Mặc dầu vây, nỗi phiền muộn luôn đeo bám trên mỗi thân xác của con người, hay nói đúng hơn là “thần dữ” luôn hoạt động trên con người, nó làm cho chúng ta mất đi sự bình an, sự tối tăm trong tâm hồn, mất lòng tín nhiệm, thiếu tình yêu hay sự lười biếng của linh hồn. Lúc đó, linh hồn như mảnh đất trong sa mạc không có nước tưới. Vì vậy, chúng ta cần phải tìm ra các nguyên nhân dẫn đến sự phiền muộn; có thể là thái độ không nóng không lạnh, tình trạng tội lỗi trong đời sống thiêng liêng hay thử thách Thiên Chúa. Khi tìm ra được các nguyên nhân, chúng ta sẽ nhận thấy được giá trị của ân sủng. Để tránh sự phiền muộn, chúng ta nên trung thành với những gì mà Thiên Chúa đã ban cho mình, gặp gỡ với ai đó để phân định và nhận thức được điểm yếu của mình.
2. Những khó khăn trong sự phân định thiêng liêng
Ngày nay, chúng ta đang sống trong môt nền văn minh mà thực giả lẫn lộn. Điều đó đã khiến nhiều người khó có thể phân định được rõ ràng được thiện và ác. Chẳng hạn, trong lĩnh vực truyền thông, chúng ta có nhiều cơ hội tiếp nhận nhiều luồng thông tin khác nhau. Riêng trong những vấn đề của Giáo Hội, chúng ta cũng có thể tiếp nhận được nhiều nguồn. Vì không có khả năng phân định, chúng ta bối rối không biết đâu là lòng yêu mến thực và đâu là cái bẫy của sự chia rẽ Giáo Hội để không thể hiệp thông với gia đình Giáo Hội nữa.
Cái khó tiếp theo là không thực sự muốn bước theo Chúa. Chúng ta thương muốn làm cho Chúa điều mà chúng ta muốn làm cho mình, tức là tìm lợi lộc vinh quang ngay tại trần thế. Chúng ta thường sợ và không dám đi theo con đường mà Chúa Giêsu đã báo trước về cuộc khổ nạn.
3. Phân định thiêng liêng theo thánh Inhaxio và thánh Augustino
Thánh Inhaxio được sinh ra trong một gia đình giàu có, có nhiều tham vọng và hiếu thắng. Nhưng Thiên Chúa đã can thiệp đến đời sống của thánh nhân qua căn bệnh hiểm nghèo mà ngài gặp phải. Đang lúc chữa trị, thánh nhân đã gặp được Thiên Chúa và bắt đầu cuộc chiến thiêng liêng. Một bên là Hạnh Các Thánh, Gương Chúa Giêsu, Kinh Thánh một bên là suy nghĩ về những ham muốn trần gian, một cô gái đẹp nhưng sau đó lại thấy khô khan. Sự trở lại của thánh nhân do tính hiếu thắng của mình. Hình ảnh thánh Đaminh đi hành hương bằng chân đất đã để lại một sự thán phục đối với thánh nhân. Con người ai cũng có những tham vọng lớn, tham vọng về Thiên Chúa cũng như về chính mình. Do đó, phải biết hài hoà mọi sự trong cuộc đời của mình, phải biết sống trong niềm vui và tâm tình ca tụng mà thánh sử Luca đã viết: “Lạy cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha…” ( Lc 10,21 ). Trong cuộc sống, con người thường giáp mặt với hai loại “thần”, đó là thần lành và thần dữ, hai loại này kình địch lẫn nhau, chống đối nhau. Kinh nghiệm của thánh Phaolô cho chúng ta một hình ảnh rõ ràng nhất về việc sống theo Thần Khí hay xác thịt. Vì thế, chúng ta phải biết phân định để sống với thần lành: sống trong sự thật với tâm tình ca tụng Thiên Chúa, tăng trưởng đức tin của mình, sống bí tích hoà giải để mở mình ra với lòng nhân từ… Đây là một lối sống phải biết hy sinh từ bỏ và tỉnh thức. Còn dấu chỉ của tính thần dữ là nản chí, hoang mang, lo sợ, cổ võ tính ích kỷ… Đây là một loại thần của sự chết, nó làm cho con người gây ra những chia rẽ, kết án và khép mình trong tính kiêu ngạo. Để sống với thần lành chúng ta cần phải tiếp nhận ơn Chúa hằng ngày, ý thức về sự hiện diện của Chúa trong bí tích Thánh Thể. Như vậy, chúng ta mới khước từ được sự dữ trong con người chúng ta.
Đối với thánh Augustino, ngài nói: hãy yêu mến và làm điều bạn muốn. Trong tất cả mọi sự cần phải biết dừng lại, mọi quyết định nên dừng lại để suy nghĩ rồi hành động. Ngày nay, con người cũng đang xây dựng cho mình hai loại thành đô, đó là thành đô của Thiên Chúa và thành đô của nhân loại. Vậy, chúng ta đang xây dựng loại thành đô nào? Trên thế giới, nạn chiến tranh và nghèo đói còn nhiều. Đây là một cơ hội tốt để xây dựng thành đô Thiên Chúa và nhận biết những dấu chỉ về sự hiện diện của Ngài. Sự hiện diện đó giúp chúng ta tiếp tục chiến đấu bảo vệ thành đô Thiên Chúa. Giữa những bi đát của cuộc sống, cùng cực trong xã hội vẫn có một ánh sáng được loé lên và soi chiếu cuộc đời. Đây là dịp để Chúa thanh tẩy. Hạt giống tốt, nếu trồng ở đất tốt và được chăm sóc tốt, nó sinh hoa kết quả tốt. Ngược lai, nếu hạt giống tốt mà không được chăm sóc thì nó sẽ mau chóng hư thối; hạt giống xấu, nếu trồng ở đất tốt và có sự chu đáo của việc chăm sóc thì nó vẫn sinh hoa kết quả. Vậy, cần phải biết chăm sóc hạt giống cuộc đời cho thích hợp để nó sinh lợi cho chúng ta. Đời sống phân định thiêng liêng cũng vậy, vấn đề là chúng ta tăng trưởng như thế nào so với đời sống ban đầu chứ không phải dựa vào đời sống ban đầu mà nhận định thiêng liêng về mình.
Đời sống thiêng liêng yêu cầu mỗi người sống can đảm để làm chứng cho chân lý, sống một cách đặc biệt với người thầy nội tâm đầy yêu thương của mình. Trong cuộc sống, chúng ta thường ẩn núp trong công việc, tỏa sáng ở bên ngoài, tránh đối diện sự thật. Điều cân thiết là làm những điều mà Chúa Giêsu đã dạy, tích cực dấn thân với tất cả tình yêu vì Tin Mừng, vì cá nhân và vì cộng đoàn.
4. Chúa Giêsu – con người, mẫu gương của sự phân định thiêng liêng
Chúa Giêsu, Đấng đã đến thế gian cách đây hơn hai ngàn năm để cứu chuộc con người thoát khỏi xiềng xích của tội lỗi và để lại cho nhân loại một kho tàng lớn ở dưới đất cũng như trên trời. Qua đó, con người có thể nhận biết được giá trị đích thực của sự sống ngay trần gian để làm “bàn đạp” tiến về quê trời là nơi mà có sự sống đời đời. Bàn Đạp chính là việc vâng nghe lời chúa Giêsu mà đem ra thực hành. Sự sống đời đời ấy không phải là một cái gì xa lạ mà phải qua thế giới bên kia mới cảm nghiệm được, mà là một cái gì thực tế và cụ thể, có thể cảm nghiệm được ngay ở đời này. Sự sống ấy đã được Đức Giêsu nói đến trong câu: “Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10). Ở đời này, sự sống đời đời được thể hiện bằng sự sống dồi dào nội lực và sinh khí để có thể sống tràn đầy bình an và hạnh phúc, trong tinh thần vị tha, quên mình, biết yêu thương và hy sinh cho tha nhân không mệt mỏi. Đó là thứ hạnh phúc đích thực của thiên đàng là nơi chỉ có yêu thương, không còn ích kỷ hay thù hận. Đó là sự bình an và hạnh phúc vô biên trong nội tâm, thứ hạnh phúc không bị lệ thuộc vào hoàn cảnh hay những yếu tố bên ngoài, một thứ hạnh phúc không ai lấy mất được. Sự sống đời đời ấy ta có được là do vâng nghe lời Đức Giêsu, để chúng ta có thể nhìn cuộc đời, quan niệm mọi sự như Đức Giêsu đã nhìn và quan niệm, để ta có thể tư tưởng, nói năng và hành xử như Ngài đã từng tư tưởng, nói năng và hành xử. Ở đời này, sự sống ấy có thể ví như ở dạng hạt, và nó sẽ phát triển thành cây cổ thụ và sinh hoa kết trái ở đời sau. Chỉ khi ta có được “hạt giống sự sống đời đời” ở đời này do việc vâng nghe lời Đức Giêsu, ta mới có được “cây sự sống đời đời” ấy ở đời sau ( Kh 22,2.14.19)
Lý do mà Chúa Giêsu đến thế gian là vâng lời Thiên Chúa Cha để thi hành ý muốn của Ngài.
Thi hành Thánh Ý Cha trên trời, với Chúa Giêsu quan trọng đến nỗi Ngài nhìn điều đó như là lương thực nuôi sống Ngài hàng ngày. Đó chính là trọng tâm của cuộc đời Ngài, Nhìn vào cuộc đời Chúa Giêsu, chúng ta cảm thấy thực sự Ngài luôn vâng lời Cha mình, cả những lúc Ngài ở trên đường sứ mạng, cũng như lúc Ngài rơi vào những khủng hoảng nặng nề, những lúc như muốn trốn chạy khỏi chén đắng, nhưng vì vâng lời Cha, vì muốn ăn lương thực là thi hành Ý Cha, nên Ngài đã đón nhận. Ngày hôm nay, chúng ta lắng nghe lời của Giêsu và hiểu được sứ mạng của Ngài. Phần chúng ta thì cảm thấy thế nào? Sứ mạng của Giêsu ngày xưa có là sứ mạng của chúng ta ngày nay không? Cha trên trời có mong ước và kêu gọi chúng ta hãy cùng lên đường với Chúa Giêsu để thi hành sứ mạng tình yêu này không? Thi hành Thánh Ý của Thiên Chúa đối với chúng ta, những người con của Cha trên trời và những người anh em của Đức Kitô, có quan trọng không? Ngoài ra, nhìn vào xã hội chúng ta đang sống, chúng ta có cần thấy mình phải sống sứ mạng tình yêu mà Chúa Cha và Chúa Giêsu mời gọi không? Nhưng làm sao chúng ta có thể thi hành Ý Cha trên trời ? Nhưng làm sao chúng ta có thể thi hành Ý Cha trên trời?
Điều đầu tiên là chúng ta cần sống mật thiết với Giêsu, cần kết thân với Ngài, dọn cho Ngài một chỗ trong căn nhà cuộc sống của chúng ta. Và với Giêsu, chúng ta lên đường để sống sứ mạng tình yêu này, để thi hành Thánh Ý của Cha, để tập ăn lương thực hàng ngày nuôi sống mình là chính việc thi hành Ý Cha trên trời. Ý Cha đó cần được thể hiện không chỉ ngày xưa mà còn trong ngày hôm nay nữa. Và khi thi hành Ý Cha trên trời, chúng ta sẽ qua Đức Giêsu nhìn thấy tôn nhan Cha trên trời và ở lại trong tình thân yêu với Chúa Cha.

Để phân định thiêng liêng, chúng ta phải có một tình yêu đặc biệt đối với Thiên Chúa và Mẹ Maria. Tình yêu đó là sức mạnh giúp chúng ta đặt hết tâm tư, tình cảm vào Thiên Chúa để chọn lựa một hướng đi thiêng liêng cho mình. Đối với mọi Kitô hữu đặc biệt là các tu sĩ, Kinh Thánh chính là nơi mà chúng ta đi tìm ý nghĩa cuộc sống của mình. Thiên Chúa, Đấng tạo dựng mọi loài trong đó có con người, ban cho con người có trí khôn và tự do để con người biết tìm kiếm Ngài ngay ở đời này và cùng hưởng phúc vinh quang vời Ngài ở đời sau. Người biết phân định thiêng liêng là người biêt sống theo Tin Mừng và làm cho cho Tin Mừng được triên nở trong bản thân và tha nhân.

Thứ Hai, 21 tháng 11, 2011

thật kỳ lạ

1. Thật kỳ lạ khi tở giấy 2000 đồng có giá trị thật lớn lúc bỏ vào giỏ nhà thờ, nhưng lại quá nhỏ lúc đưa nó đi chợ mua sắm.
2. Thật là kỳ lạ khi thấy một giờ trong nhà chúa thì quá lâu, mà một giờ xem bóng đá thì qua thật nhanh.
3. Thật là kỳ lạ khi cầu nguyện thì chẳng biết nói gì, nhưng khi nói chuyện với bạn bè thì chẳng hết chuyện để nói.
4. Thật là kỳ lạ khi dự một nghi lễ phụng vụ hai tiếng đồng hồ thì quá lâu, nhưng nếu xem phim thì lại thật quá lẹ.
5. Thật là hồi hộp vì chúng ta thấy rất hồi hộp khi trận đấu bóng kéo dài thêm mấy phút phụ trội, nhưng lại cằm rằm khi một bài giảng được kéo dài hơn mọi khi.
6. Thật là kỳ lạ vì chúng ta thấy khó khăn để đọc một đoạn Kinh Thánh, nhưng lại dễ dàng đọc hang trăm trang tiểu thuyết.



7. Thật là kỳ lạ khi thấy nhiều người ngồi ghế đầu khi đi dự những buổi đại hội nhạc hay các trận dấu bóng, nhưng lại tìm ngồi ở các hang ghế cuối trong thánh đường.
8. Thật là kỳ lạ khi chúng ta caacf có hai bay ba tuần lễ để sắp xếp thời giờ cho những công việc nhà Chúa, nhưng lại dễ dàng thích ứng cho những chương trình khác trong chớp nhoáng ở phút chót.
9. Thật là kỳ lạ sao thấy quá khó khăn để nhớ một đoạn Kinh Thánh hầu có thể thuật lại cho người khác, nhưng lại dễ dàng để hiểu và nhớ những lời đàm tiếu, dèm pha để kể cho người khác nghe.
10. Thật là kỳ lạ sao chúng ta dễ tin nhwungx gì báo chí đăg tải, nhưng lại nghi nan đặt vấn đề những gì Kinh Thánh dạy.
11. Thật là kỳ lạ sao ai cũng muốn lên Thiên đàng, nếu họ không phải tin, không phải suy nghĩ, không phải nói hay làm gì.

Thứ Tư, 16 tháng 11, 2011

SỰ DIỆU KỲ CỦA TRÁI TIM

Trái tim là bộ phận kỳ diệu nhất trong cơ thể con người. Không chỉ vì nó bơm máu nuôi chúng ta sống mà nó còn là biểu tượng tinh thần.
Là tình yêu, là sự thương cảm, là nhiệt huyết, là sự trung thực, là niềm tin…. Người ta vẫn dùng trái tim để yêu nhau, để thương từng điều nhỏ bé, để rung động với cuộc sống, để đốt lửa, để thắp những niềm tin và hy vọng, để tha thứ và cảm thông, để chia sẻ và gửi gắm, để bảo bọc và giữ gìn… Trái tim vì thế mà kỳ diệu


Trái tim còn có thể biết nói những điều mà chúng ta không thể diễn đạt bằng lời. Người ta yêu nhau bằng sự thôi thúc của trái tim. Người ta tin nhau cũng bằng cảm giác của trái tim mách bảo. Chia sẻ nhau cũng bằng trái tim trước nhất. Tha thứ nhau cũng vì trái tim muốn thế. Và muốn cống hiến khi trái tim biết dựng lên thành hình ngọn lửa. Trái tim nói rất nhiều điều. Không có đúng hay sai trong những điều trái tim nói. Chỉ có nên hay không nên, cần hay không cần. Và xác tín bằng nhịp đập của trái tim. Nhịp đập ấy không biết nói dối. Nếu ai không biết nghe, không nghe thấy trái tim mình nói thì người đó thật bất hạnh và thiệt thòi. Vì cuộc sống không phải chỉ có 2 cực đúng/sai, tốt/xấu,… Cuộc sống còn biết bao điều hoang hoải giữa hai bờ tốt/xấu, giữa ranh giới đúng/sai. Trái tim biết ta là ai và ta muốn la ai?
Trái tim kỳ diệu là thế, nói nhiều là thế, hữu dụng là thế! Vậy thì hãy biết trân trọng, lắng nghe và gượng nhẹ với trái tim!
Gượng nhẹ với trái tim vì trái tim người mong manh lắm!
Đừng để sân hận bóp nghẹt trái tim mình
Đừng để lợi danh ru ngủ trái tim mình
Đừng để những mưu cầu khiến trái tim câm lặng
Đừng để đám đông hay lý trí áp đặt nhịp đập trái tim mình
Và đừng để cả những sự thật trần trụi làm trái tim bị tổn thương không hoàn nguyên được.
Điều đó không phải là chúng ta chạy trốn sự thật trần trụi. Chỉ là khi ta nhận ra thần tượng của mình không hoàn mỹ như ta nghĩ thì hãy tôn trọng sự thật đó nhưng đừng vì nó mà đạp đổ tòa lâu đài ta đã từng xây.
+Là khi ta nhận ra người ta tin tưỡng nhất đã bội phản thì cũng đừng vì thế mà xóa bỏ toàn bộ database giữa ta và người đó
+Là khi ta đang dành hết trái tim cho một người rồi bỗng dưng ta nhận ra rằng người đó không xứng đáng với trái tim mình thì cũng đừng vì thế mà gõ phím delete all những gì thuộc về người đó
Trái tim cần gượng nhẹ
Để đau đớn không làm biến dạng trái tim.

Thứ Năm, 3 tháng 11, 2011

Ý Nghĩa Mục Đích

- Sáng nay mẹ làm gì?
- Cầu nguyện.
- Bắt đầu từ mấy giờ?
- 4 giờ rưỡi.
- Và sau khi cầu nguyện?


- Chúng tôi tôi tiếp tục cố gắng cầu nguyện qua công việc bằng cách làm những công việc đó với Chúa Giêsu, vì Chúa Giêsu và cho Chúa Giêsu. Ðiều này giúp chúng tôi đặt cả trái tim và tâm hồn mình vào công việc đang làm. Những người đang hấp hối, những người đang co quắp, những người bệnh tâm thần, những người bị bỏ rơi, những người không được yêu thương. Họ là Chúa Giêsu cải trang...
Ðó là những câu Mẹ Teresa trả lời cho một cuộc phỏng vấn đăng trên báo Time, đầu tháng 12/1989. Những câu trả lời vắn tắt, đơn sơ này, nói lên tất cả cuộc sống cầu nguyện của Mẹ Teresa và cũng có thể giúp chúng ta hiểu biết ý nghĩa và vai trò của đời sống cầu nguyện trong cuộc sống của mỗi người chúng ta. Ở đây trước hết, chúng ta sẽ đề cập tới cầu nguyện trong cuộc sống của tất cả mọi người tín hữu, để rồi từng bước, chúng ta sẽ đi sâu hơn về cầu nguyện, đặc biệt trong ơn gọi của chúng ta.
Ðể suy nghĩ về ý nghĩa và vai trò của cầu nguyện trong cuộc sống, tôi xin bắt đầu từ những hình thức, những cử chỉ, những lời kinh đơn sơ nhất mà chúng ta đã được mẹ dạy cho từ khi chúng ta mới bập bẹ biết nói. Có lẽ hầu hết chúng ta đều đã được mẹ dạy cầu nguyện ngay từ khi bập bẹ biết nói. Khi chúng ta 4, 5 tuổi, mỗi tối thường là mẹ giục chúng ta hay là giúp chúng ta quỳ gối làm dấu thánh giá, đọc kinh hoặc là nói những lời vắn tắt mà mẹ dạy cho trước khi đi ngủ. Và khi chúng ta bắt đầu có trí khôn hơn, chúng ta bắt đầu biết đọc kinh, biết cầu nguyện chung trong gia đình, thì chúng ta thấy buổi đọc kinh cầu nguyện trong gia đình bao giờ cũng bắt đầu với cử chỉ quỳ gối. Rồi làm dấu thánh giá và sau đó, đọc kinh xin ơn Chúa Thánh Thần, rồi kinh Tin, Cậy, Mến. Ðiều này chúng ta đã làm từ nhỏ cho đến bây giờ, có lẽ mỗi ngày chúng ta vẫn quen làm như thế. Nhưng không biết có lần nào, chúng ta thật sự đi sâu vào những cử chỉ, những lời kinh đơn sơ này, đã cảm mến tất cả nội dung và những tâm tình sâu xa mà những cử chỉ, những lời kinh sơ đẳng này đem đến cho chúng ta hay chưa?
Hôm nay, ít nhất là một lần, chúng ta thử làm lại những cử chỉ đầu tiên ấy, đọc những lời kinh cơ bản nhất ấy với tất cả tâm tình, chậm rãi và hãy đi vào trong những tâm tình mà những cử chỉ, những lời kinh ấy gợi lên cho chúng ta, và như thế, chúng ta sẽ hiểu được ý nghĩa của cầu nguyện là gì? Bởi vì, chính những cử chỉ, những lời kinh ấy, đưa chúng ta vào đời sống cầu nguyện và diễn tả chính ý nghĩa và nội dung của cầu nguyện trong đời sống người tín hữu. Ðọc lại trong những hạnh các thánh tử đạo, tổ tiên của chúng ta, chúng ta hay gặp thấy những lời thách đố chúa Giêsu: bay thử cầu nguyện xin Chúa xem Chúa có cứu được bay khỏi tay tao không? Và có lẽ người ngoại đạo, những người đã bắt đạo, chỉ hiểu cầu nguyện như là một sự van xin thần thánh làm theo ý mình, thậm chí những hình thức bùa ngải là những cách người ta muốn sai khiến thần thánh làm theo ý mình. Nhưng cầu nguyện đối với chúng ta lại mang một ý nghĩa, một nội dung khác hẳn. Bản thân tôi đã có lần được nghe cùng một lời thách đố: "Anh cầu nguyện nhiều lắm phải không? Nhưng cầu nguyện mấy cũng đâu có thóat được tay chúng tôi! ". Tôi nhớ tới Chúa Giêsu trên thánh giá cũng đã nghe lời thách đố tương tự. Chúa không trực tiếp trả lời những kẻ thách đố Chúa, nhưng ngước lên Cha trên trời: "Cha ơi, con xin phó linh hồn con trong tay Cha". Tôi đã dựa theo lời này để trả lời cho người đang thách đố tôi: "Ðúng, tôi đã cầu nguyện và còn cầu nguyện nhiều hơn nữa, nhưng không phải để thóat tay các anh, mà để tôi được ở trong tay Chúa và cho cả các anh cũng được ở trong tay Chúa nữa"
Cử chỉ đầu tiên mà cha mẹ dạy chúng ta hoặc khi vào nhà thờ chúng ta làm, đó là quỳ gối. Quỳ gối là một cử chỉ tôn kính, thờ lạy. Chúng ta quỳ gối trước mặt Thiên Chúa là một cử chỉ để tuyên xưng lòng tin, để tôn vinh uy quyền của Thiên Chúa. Quỳ gối, tức là chúng ta đã đặt mình trước Ðấng Tối Cao, tự nhận mình là nhỏ bé, quỳ gối tôn thờ. Vậy thì chỉ một cử chỉ quỳ gối, chúng ta làm với tất cả ý thức của chúng ta, thì nó đã đưa chúng ta vào trong ý nghĩa của cầu nguyện rồi. Vì cầu nguyện trước tiên là đến với Chúa, mà đến với Chúa như một con người nhỏ bé đến trước Ðấng Toàn Năng. Cử chỉ quỳ gối là một cách biểu lộ lòng tin, biểu lộ sự nhìn nhận Thiên Chúa là Ðấng Toàn Năng. Chúng ta quỳ gối tôn thờ Thiên Chúa, nhìn nhận Ngài là Chúa của chúng ta. Ðó là bước đầu tiên của cầu nguyện. Cầu nguyện là gặp gỡ với Thiên Chúa, bằng cả tâm hồn và thể xác chúng ta, bằng cả con người chúng ta. Nhưng có lẽ nhiều khi chúng ta quỳ gối một cách máy móc, chúng ta quỳ gối vì đã quen thế thôi, vào nhà thờ thì quỳ gối, đọc kinh thì quỳ gối. Bạn hãy thử một lần quỳ gối trước mặt Thiên Chúa với tất cả tâm tình, với tất cả ý thức nhìn nhận mình là ai trước mặt Thiên Chúa. Nhìn nhận Thiên Chúa là Ðấng cao cả, vượt trên mọi thọ sinh, là Chúa của chúng ta.
Sau cử chỉ quỳ gối, đó là dấu thánh giá. Chúng ta làm dấu thánh giá trên mình: Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, thì trước tiên là chúng ta tuyên xưng Ba Ngôi Thiên Chúa, không phải chỉ một cách trừu tượng, nhưng là tuyên xưng Ba Ngôi Thiên Chúa trong quan hệ Cứu Chuộc chúng ta. Chúng ta tuyên xưng Thiên Chúa Cứu Ðộ bằng Mầu Nhiệm thập giá: Cha đã sai Con Một xuống làm của lễ đền tội cho chúng ta, trên thập giá. Làm dấu thánh giá, tuyên xưng Ba Ngôi Thiên Chúa, tuyên xưng ơn cứu độ, tức là chúng ta khẳng định mình thuộc về Ba Ngôi nhờ ơn cứu độ mà Thiên Chúa đã thực hiện bằng thập giá của Ðức Kitô. Toàn thể con người: trí khôn , con tim và toàn thân. Khi chúng ta làm dấu trên trán, trên ngực và trên hai vai thì hai vai là tượng trưng cho cả con người, vầng trán tượng trưng cho trí tuệ, lòng ngực là con tim. Chúng ta thấy ý nghĩa tượng trưng này khi chúng ta nói "gánh nặng đè trên hai vai". Không phải chỉ trên hai vai mà trên cả con người. Và khi chúng ta gặp lại người bạn thân, chúng ta vỗ vai, chúng ta nắm hai vai của bạn mà mừng rỡ, hay khi chúng ta giận dữ, chúng ta cũng có thể có khi nắm hai vai người bạn mà lay. Vậy thì hai vai cũng là tượng trưng cho cả con người. Làm dấu thánh giá trên trán, trên ngực và trên hai vai, đó là ghi dấu thánh giá của ơn cứu độ trên con người của mình, tuyên xưng rằng mình thuộc về Ba Ngôi Thiên Chúa, mình được cứu độ nhờ Mầu Nhiệm thập giá, và đồng thời cũng nhìn nhận là mình sống dưới cờ thập giá; mình nhận lấy thập giá của mình để đi đằng sau Chúa Giêsu, cùng vác thập giá với Chúa Giêsu, đón nhận cuộc sống của mình như một cuộc tham dự vào Mầu Nhiệm thập giá của Chúa Giêsu.
Như vậy các bạn thấy cử chỉ đầu tiên của buổi đọc kinh, cầu nguyện của chúng ta gói ghém tất cả ý nghĩa của cầu nguyện. Cầu nguyện là thời gian chúng ta dành riêng để sống mối quan hệ của mình với Thiên Chúa. Tuy rằng chúng ta vẫn tin có Chúa, nhưng phải có thời gian dành riêng để sống mối quan hệ ấy. Ðó là thân phận con người. Chúng ta không thể nào sống tất cả mọi mối quan hệ một lúc, dù khi sống một cách ý thức đầy đủ, thì không nhất thiết chúng ta phủ nhận quan hệ khác, nhưng mà nhất thiết phải có thời gian dành riêng, phải có thì mạnh cho mỗi mối quan hệ. Ngay cả khi những quan hệ ấy bổ sung lẫn cho nhau. Chẳng hạn cha mẹ cùng yêu thương nâng niu một đứa con, đứa con làm cho hai vợ chồng gần nhau hơn, nhưng mà vẫn có lúc dỗ cho con ngủ để vợ chồng có thời giờ sống riêng với nhau. Vợ chồng có thể cùng ẳm con đi thăm một người bạn, nhưng trong lúc gặp bạn cũng phải bắt con ngồi yên để bố mẹ nói chuyện, hay để cho con ra ngoài chạy chơi, dù cho lúc ấy không phải từ chối con, lúc ấy là thời gian dành riêng để nói chuyện với người bạn, là cái thì mạnh để sống mối quan hệ với người bạn.
Giờ cầu nguyện là thời gian dành riêng để sống ý thức mối quan hệ với Chúa. Ðiều này cần thiết trong đời sống chúng ta, cũng giống như khi chúng ta còn bé mới bập bẹ biết nói, mẹ dạy chúng ta nhận ra ông, bà, chú, bác, bằng cách dạy ta khoanh tay lại: Ạ ông đi con, ạ bà đi con, ạ bác đi con. Những cử chỉ ngây thơ ấy là bước đầu để dạy cho chúng ta quan hệ gia đình, quan hệ xã hội, quan hệ với người khác. Ngày tết, chúng ta đi mừng tuổi ông bà, chú bác, cô dì; con dâu mới, con rể mới đi nhận họ. Rồi ngày giỗ, con cháu tụ họp đọc kinh, ăn giỗ. Ðám cưới thì người ta mời bà con họ hàng nội ngoại. Tất cả những sinh hoạt gia đình, xã hội đó, nhằm duy trì nuôi dưỡng mối quan hệ gia đình, mặc dù quan hệ huyết nhục nằm ở trong huyết quản của chúng ta vẫn còn đó. Nhưng mà con người vẫn bị chi phối bởi quy luật: xa mặt cách lòng. Không có những sự gặp gỡ thì cũng sớm quên nhau. Giữa con người với con người: thấy được nhau, nghe được nhau, sờ được nhau, mà còn cần có những thời giờ dành riêng cho từng mối quan hệ, thì đối với Thiên Chúa, Ðấng mà ta không thấy được, không nghe được, không sờ được, ta lại càng cần phải có thời giờ mỗi ngày dành riêng để nuôi sống mối quan hệ này, mà ta đón nhận bằng lòng Tin, Cậy, Mến mà thôi, mặc dù có Thánh Thần ở trong ta, khác nào dòng máu của Thiên Chúa để cho ta làm con Thiên Chúa, mang sự sống của Thiên Chúa trong mình ta. Cũng vì vậy mà ta thấy rằng những cử chỉ mở đầu đã đặt ta vào chính ý nghĩa sâu xa nhất của cầu nguyện, đó là nhìn nhận và thờ lạy Thiên Chúa, nhìn nhận mối quan hệ này với Ba Ngôi Thiên Chúa và tham dự vào cuộc sống của Ba Ngôi. Nhìn nhận mình được cứu chuộc nhờ Thập Giá và sẵn sàng sống dưới cờ thập giá, tham dự vào Mầu Nhiệm thập giá của Ðức Kitô để cùng với Ngài làm con Thiên Chúa, để cùng với Ngài sống Mầu Nhiệm Phục Sinh, sống đời sống mới.
Tất cả quan hệ của ta với Chúa thâu tóm trong dấu Thánh Giá. Ta là con của Chúa Cha, ta tham dự vào Mầu Nhiệm chết và sống lại của Chúa Giêsu và ta sống nhờ Thánh Thần. Khi còn bé và có khi cả lúc đã lớn, chúng ta sướng biết bao được ngồi trong lòng cha, trong lòng mẹ. Có khi chúng ta chẳng cần nói gì cả mà ngồi yên nép vào lòng mẹ, để cảm thấy cái êm đềm của lòng mẹ, cái hạnh phúc có cha, có mẹ. Có lần tôi đã thấy một bé gái chừng 10 tuổi theo mẹ lên thăm cha ở trại cải tạo. Cha mẹ ngồi đối diện nhau, hai bên bàn, còn cô bé thì được tự do hơn, cứ đứng sau lưng cha, hai tay ôm ngang cổ cha, nép vào cha, cô bé cứ hưởng cái hạnh phúc được ôm lấy cha thế thôi. Giờ cầu nguyện là để ta đích thân sống trước mặt Cha cùng với Chúa Giêsu và nhờ sự dạy dỗ của Thánh Thần. Ta hãy hưởng cái hạnh phúc đó. Chính hạnh phúc này sẽ là sức mạnh cho ta trong những giờ khác, trong cuộc sống mỗi ngày. Cũng như đứa bé được mẹ dẫn đến cổng trường, mẹ hôn âu yếm trước khi để con vào lớp, thì đứa bé ấy sẽ luôn sống xứng đáng để khi mẹ tới đón, lại được mẹ ôm vào lòng, hoặc nó có té đau, nó có làm dơ quần áo, thì nó vẫn tin tưởng rằng lát nữa mẹ sẽ đón về, mẹ sẽ làm dịu nỗi đau, mẹ sẽ giặt sạch áo quần. Chính vì thế mà ta thường thấy những trẻ em được cha mẹ yêu thương, tỏ ra hồn nhiên, bạo dạn hơn.
Những bài kinh tiếp theo dấu Thánh Giá giúp chúng ta phát triển nội dung của quan hệ với Chúa Ba Ngôi và những tâm tình mà ta phải sống với Chúa, những tâm tình cơ bản nhất. Kinh đầu tiên ta đọc là Cầu xin Chúa Thánh Thần. Tại sao lại phải xin ơn Thánh Thần khi bước vào cầu nguyện? Chúng ta đã biết rằng, chỉ có nhờ Thánh Thần, ta mới có thể gọi Thiên Chúa là Cha - Ápba: nếu mà dám dịch cho sát có thể gọi Thiên Chúa là "Ba" - Ápba là tiếng mà trẻ con Do thái ngày nay gọi cha, cũng như chúng ta gọi ba, và cũng chỉ nhờ Thánh Thần chúng ta mới có thể tuyên xưng Ðức Giêsu là Chúa. Cũng chỉ nhờ Thánh Thần chúng ta mới biết cầu nguyện thế nào cho phải. Thánh Phaolô đã dạy chúng ta những điều ấy trong thư gửi tín hữu Rôma ở chương 8, câu 14-15 nói về Thánh Thần dạy chúng ta kêu Thiên Chúa là Cha và câu 26-27 nói về Thánh Thần cầu thay nguyện giúp cho chúng ta. Thánh Thần dạy cho chúng ta cầu nguyện. Và cũng ở chương 8 này, thánh Phaolô nói rằng Thánh Thần dẫn dắt chúng ta sống làm con Thiên Chúa. Vậy thì trong mọi việc, chúng ta phải biết xin ơn Thánh Thần đề biết sống đúng tư cách làm con cái Thiên Chúa. Ðặc biệt trong cầu nguyện chúng ta sống triệt để cái ý thức làm con của mình đối với Chúa, đặc biệt là quan hệ của con đối với Cha. Nhờ Thánh Thần, ta mới có thể gọi Thiên Chúa là Cha như Chúa Giêsu, và với Chúa Giêsu. Vì ta là con Thiên Chúa trong mức độ ta được ở trong Chúa Giêsu, là con trong người Con, như thánh Phaolô nói. Trong Phúc Âm theo thánh Luca, ở chương 10,21 chúng ta thấy chính Chúa Giêsu cũng đã thân thưa với Cha theo tác động của Chúa Thánh Thần. Chúng ta biết Chúa Thánh Thần trong Chúa Giêsu. Và trong tất cả những tác động đó có chính việc cầu nguyện của Chúa Giêsu. Chính khi Chúa Giêsu cảm thấy vui mừng được Thánh Thần thúc đẩy, Chúa Giêsu thân thưa với Chúa Cha những lời êm đềm nhất: "Lạy Cha, Con ngợi khen Cha..." Truyền thống của Giáo Hội đã dạy chúng ta đọc kinh xin ơn Chúa Thánh Thần trước giờ cầu nguyện và trước các công việc làm hằng ngày, bởi vì Thánh Thần dạy chúng ta cầu nguyện, Thánh Thần cầu nguyện trong chúng ta và Thánh Thần dẫn dắt chúng ta sống làm con Thiên Chúa.
Tiếp theo là kinh Tin Cậy Mến. Khi chúng ta gặp một người, thì người đó ở trước mặt chúng ta, khi chúng ta nhớ đến một người, thì người đó hiện ra trong tâm trí chúng ta cùng với tình cảm của chúng ta đối với người ấy. Nhưng khi chúng ta đến trước mặt Thiên Chúa, thì con mắt chúng ta không thấy Chúa, tâm trí chúng ta cũng rất mơ hồ. Do đó, cần phải đem cả tâm trí mà đón nhận sự hiện diện của Thiên Chúa bằng một lòng tin, một lời tuyên xưng lòng tin với tất cả tâm tình, để có thể hoàn toàn ý thức rằng ta đang ở với Chúa, ở trước mặt Chúa, ở trong lòng Chúa. Ta được Chúa yêu thương đến nỗi ban Con một của Ngài để ta được gọi Ngài là Cha và thân thưa với Ngài như con với Cha, ta gieo mình vào lòng Cha, thấy mình được ngồi trong lòng Cha với Chúa Giêsu thì những tâm tình tiếp theo sẽ trào dâng. Ta khao khát được ở trong lòng Cha và ta tin tưởng hoàn toàn Tình yêu của Cha. Chính Tình Yêu ấy sẽ giữ ta, để ta được ở trong lòng Cha bây giờ và mãi mãi. Ở trong lòng Cha, cảm nhận Tình Yêu của Cha, ta sẽ thấy lòng mình tràn đầy một tâm tình yêu mến Cha, đồng thời ta sẽ nhìn mọi người như con của Cha và muốn chia với mọi người Tình Yêu như Cha yêu thương ta. Có bao giờ bạn để ý hình ảnh một em nhỏ, khi mẹ đi xa về, ôm đứa em nhỏ hơn của nó vào lòng. Thế là, lát sau, trong cái êm đềm của lòng mẹ, nó lại quay sang cùng với mẹ mà nựng em nó. Lúc ấy, nó thương em nó hơn bao giờ bởi vì lúc ấy nó cảm thấy được mẹ thương, mẹ thương nó, mẹ thương em nó, và nó càng thương em nó hơn. Tình Yêu thật bao giờ cũng tỏa ra như hơi nóng sưởi ấm chung quanh. Chính vì thế mà cầu nguyện, khi đưa chúng ta vào trong lòng Thiên Chúa, khi cho chúng ta một thời gian để sống tuyệt đối lòng Tin Cậy Mến, như đứa bé được ngồi trong lòng cha, trong lòng mẹ, để cảm mến tất cả cái êm ái ngọt ngào của một đưa con có cha có mẹ, được cha được mẹ yêu thương, thì chính cái tình thương ấy khi tràn ngập lòng chúng ta sẽ cuốn chúng ta theo mà tràn tới anh em. Nước mắt chảy xuôi là như thế. Tình yêu từ Thiên Chúa mà đến, tình yêu tràn qua cha mẹ đến trong chúng ta, sẽ làm cho chúng ta tràn sang tới anh em. Tình Yêu Thiên Chúa tràn ngập lòng chúng ta cũng sẽ cuốn theo, mở rộng tâm hồn, cuốn chúng ta đi theo chiều Tình Yêu Thiên Chúa mà đến với mọi người, mà yêu thương mọi người. Cùng một trái tim, cùng một Tình Yêu Chúa ban cho ta để yêu mến Chúa và yêu mến anh em, nên không thể tách rời hai tình yêu này được, và cũng không thể yêu anh em nếu không yêu Chúa.
Vậy bây giờ bạn hãy thử sống những động tác và những lời kinh cơ bản ấy, thật chậm rãi êm đềm, đừng vội vã, cứ cảm nếm hết những gì Cha ban cho trước khi chuyển sang động tác tôn thờ làm cho bạn cảm thấy hạnh phúc êm đềm, làm cho bạn cảm nhận được sự hiện diện yêu thương của Thiên Chúa, thì bạn cứ ngừng ở đó, đừng vội chuyển sang động tác khác, hãy nếm hết sự ngọt ngào của cử chỉ thờ lạy đã. Hoặc nếu chỉ một ý nghĩa của Dấu Thánh Giá làm cho bạn sung sướng êm đềm, thì bạn hãy cứ hưởng nỗi vui sướng êm đềm, ánh sáng mà lời tuyên xưng Ba Ngôi Thiên Chúa, tuyên xưng ơn Cứu Ðộ và đón nhận trên con người của mình bằng Dấu Thánh Giá: NHÂN DANH CHA - VÀ CON - VÀ THÁNH THẦN, đặt mình dưới cờ Thánh Giá của Chúa Giêsu, nhận mình được cứu chuộc nhờ Thập Giá, nhận mình sống dưới bóng Thập Giá, cùng vác Thập Giá với Chúa Giêsu để cùng được vinh quang với Chúa Giêsu vì mình đã được Thiên Chúa yêu thương. Bạn hãy thử một lần, chậm rãi, cảm nghiệm tất cả ý nghĩa sự an ủi, hạnh phúc, ánh sáng, do những cử chỉ, những lời kinh đơn sơ chúng ta đã học từ thuở nhỏ, đã đọc mỗi ngày. Bạn hãy thử một lần, rồi bạn cũng sẽ thấy được, bạn sẽ hiểu được thế nào là cầu nguyện, và bạn cũng sẽ nhận ra cầu nguyện cần thiết trong cuộc sống của bạn như thế nào.
donghanh.org

Thứ Ba, 4 tháng 10, 2011

TÍNH NGÔN SỨ CỦA ĐỜI TU








Đời tu, đời bước theo Chúa Kitô đóng một vai trò quan trọng của việc làm chứng cho Thiên Chúa trong xã hội. Con người tu sĩ ngày nay, sau khi đã lắng nghe tiếng Chúa mời gọi, họ ra đi và dấn thân hoàn toàn cho Thiên Chúa, sự dấn thân hoàn toàn đó nhằm nói lên việc Thiên Chúa vẫn còn tồn tại trong xã hội, và người tu sĩ sẽ sống hết cuộc đời cho Thiên Chúa. Bằng cuộc sống của mình, tu sĩ làm chứng cho một triều đại của Thiên Chúa đang hiển trị và qua cuộc sống đó, mọi đều người nhận thấy được giá trị thiêng liêng của mình và tin rằng Thiên Chúa đã đến với nhân loại và sẽ đến trong ngày quang lâm để phán xét mọi người về những việc làm của họ khi còn sống trên trần gian. Cuộc sống dấn thân của tu sĩ nói lên cho mọi người biết về một vị Thiên Chúa đầy yêu thương và qua cuộc sống đó đã nói lên tính ngôn sứ của đời tu. Bằng cuộc sống của mình, người tu sĩ đã làm chứng cho Thiên Chúa một cách triệt để nhất. Đời sống dấn thân của người tu sĩ nói lên tính ngôn sứ. Vậy, ngôn sứ là gì? Và ngôn sứ của đời tu là như thế nào ?

Ngôn sứ là những người được “ Chúa chọn ” ban cho những đoàn sủng đặc biệt : đã gặp Giavê và được ngài đích thân chiếm lấy. Họ là người “trực tiếp chịu ảnh hưởng của Thiên Chúa”, được người soi sáng, nhưng không đóng vai trò “thầy bói” để nói trước tương lai. Sứ mạng của họ là làm ngôn sứ nói thay cho Thiên chúa. Họ không có ý kiến riêng mà là phát ngôn viên của Thiên Chúa. Ngôn sứ còn là người của thời đại mình và là người được Chúa sai đến. Sống giữa dân chúng, chú ý tới các mặt thuộc đời sống của dân, biết rõ sự áp bức, bất công. Trong lịch sử Israel, các ngôn sứ đóng một vai trò khá đặc biệt. Nếu Apraham là người thừa hưởng “lời hứa” thì từ đó mở ra lịch sử dân Chúa; nếu Môisê, nhà lập pháp, người đã cho “dân chọn” thì ngôn sứ là người thanh tẩy và là cho sứ điệp của Thiên Chúa trên dân được sạch khỏi mọi bợn nhơ thế tục. Theo Alfred lappe, các ngôn sứ là người đi sửa chữa những cái hư hỏng dân chúng phải chịu do các chính trị gia thời đó gây ra và có trách nhiệm bảo vệ thánh danh và vinh dự của Thiên Chúa. Vậy họ là ai? Họ là những người được Chúa chọn trong số con cái Israel, thuộc mọi hạng người, làm đủ mọi ngành nghề trong xã hội: Samuel, thuộc dòng Lêvi; Amos, người chăn cừu; Isaia, nhà quý tộc Giêrusalem; Giêrêmia, Êđêkien, dòng tộc tư tế...

Như vậy, điểm chung nhất trong ơn gọi của các ngôn sứ là họ được Chúa đích thân chọn và gọi, đến độ như Giêrêmia: “Ngài biết tôi ngay khi tôi còn trong lòng mẹ và gọi tôi làm ngôn sứ của Ngài” (Gr 1,5) Việc Thiên Chúa gọi là một ân huệ trao ban nhưng không khiến cho ngôn sứ không thể cưỡng lại được. Họ chỉ còn cách đáp lại và lên đường làm nghĩa vụ: “Lạy Đức Chúa, Ngài đã quyến rũ con, và con đã để cho Ngài quyến rũ” (Gr 20,7). Tuy nhiên, để sứ vụ “nói thay” Thiên Chúa nên trọn, ngôn sứ phải chấp nhân một “cuộc sống chứng tá” và chấp nhận để Lời Chúa “chạm đến mình”. Họ phải sống sao để chính đời họ lên lời của Chúa cho thế gian, dù cho nhiều sứ mạng Chúa giao làm cho họ đau khổ, bị đòng bào xa lánh, bị bà con ức hiếp. Vì sứ mạng, họ phải chấp nhận chịu mọi đau khổ về thể xác và tinh thần.

Chúa Kitô, đấng mà Isaia loan báo từ ngàn xưa trong Cựu Ước đã đến với nhân loại thực sự trong đêm giáng sinh tại Bê Lem. Là ngôi lời nhập thể, Người đã hiện toàn con người yếu đuối của nhân loại. Dưới tác động của Thần Khí, Đức Kitô nghiệm thấu được mối tương quan giữa Ngài và chúng ta: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Thiên Chúa” (Lc 4,18-19). Lời ngôn sứ Isaia đã được ứng nghiệm nơi Đức Kitô. Chính ngài là ngôn sứ vĩ đại nhất mà Isaia đã loan báo, được thiên Chúa sai đến để thực thi sứ vụ “công bô năm hồng ân của Thiên Chúa” cho chính nhân loại, là đối tượng trung tâm của công trình cứu độ. Sứ mạng của Đức Kitô là đem lại ơn cứu độ đến cho những “kẻ nghèo hèn”, tù đày, áp bức,bệnh tật… Ngài quan tâm đến những khổ đau của họ.Tin Mừng mà Ngài rao giảng cho muôn dân là Tin Mừng sự sống, nhờ cuộc phục sinh vinh hiển sau cái chết nhục nhã, đau thương của Ngài. Cái chết nhục nhã đó là hình ảnh của một ngôn sứ bị bách hại vì sự thật và công lý.
Nhệm vụ của ngôn sứ xem ra rất cao cả và vĩ đại, là người phát ngôn nhân danh Thiên Chúa và truyền đạt mệnh lệnh của Ngài cho dân chúng. Thế nhưng, những công việc mà Thiên Chúa trao cho các ngôn sứ thì vô cùng nguy hiểm và chẳng dễ dàng một chút nào cả. Tuy nhiên, với lời mời gọi làm ngôn sứ của Thiên Chúa, đời tu đã đáp lại một cách dứt khoát. Các ngôn sứ đều có chung một số phận là bị bách hại, bị phản bội vậy thì tại sao các Ngài lại chấp nhận như vậy? Vì các Ngài cảm nhận được sự bình an và hạnh phúc khi sống trong vai trò của mình. Vì sự thật, các Ngài dám làm tất cả. Đây cũng là lý do ngày hôm nay đời tu được mời gọi trở nên ngôn sứ của Thiên Chúa để ra đi làm chứng cho sự thật .

Đời tu được mời gọi trở nên dấu chỉ ngôn sứ và làm chứng về Thiên Chúa và giá trị của Tin Mừng. Lời mời gọi này được cụ thể hóa về tình yêu đối với Chúa Giêsu và Tin Mừng. Bản chất của tính ngôn sứ của đời tu là sự bị loại trừ đối với thế giới, nhưng tu sĩ không rời bỏ thế giới mà đi vào xã hội. Nơi đó, tu sĩ kêu lên tiếng than về sự bất công của xã hội, khơi dậy kí ức về chương trình của Thiên Chúa, về tạo vật và về Giáo Hội, và thắp lên hy vọng xây dựng nước Thiên Chúa. Tính ngôn sứ của đời tu bắt đầu từ một ơn gọi của Thiên Chúa để người tu sĩ biết chấp nhận thân phận ngôn sứ của mình qua cuộc sống thánh hiến bằng việc tuân giữ các lời khuyên phúc âm: khiết tịnh, khó nghèo và vâng phục.

Một ơn gọi:
Vai trò ngôn sứ bắt đầu từ một niềm tin. Nếu chỉ đóng khung tầm nhìn trong những giới hạn trần gian, không thể chấp nhận được sứ mệnh ngôn sứ. Thực vậy, đời tu là người đại diện Chúa nói cho dân biết về những mạc khải của Người. Nếu không tin nơi Chúa, không thể đón nhận những lời ngôn sứ. Nhưng nếu tin Chúa sẽ thấy ơn gọi ngôn sứ vượt qua mọi tính toán trần gian. Ơn gọi làm ngôn sứ hoàn toàn phát xuất từ Thiên Chúa. Bởi đó, tu sĩ không thể nói theo kiểu trần gian, nhưng phải theo ý Thiên Chúa. Ý Thiên Chúa luôn là sự thật. Sự thật mất lòng. Chính vì thế, Chúa Giêsu mới nói: “không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình” (Lc 4,24). Quê hương là hình ảnh thân thương, nhưng quê hương cũng có thể giới hạn trong tầm nhìn con người. Đây cũng là một cơ hội tốt hay xấu cho ngôn sứ, có những người đã run sợ trước những trở ngại từ chính đồng hương. Trước những đe doạ, tù đày, giết chóc, nhiều người đã không dám nói sự thật. Nhưng cũng không thiếu những người vững tin vào ơn gọi và sứ mệnh. Họ dám gánh đổi mạng sống lấy sự thật. Tận thâm tâm, họ luôn lắng nghe tiếng Chúa: “hãy nói với chúng tất cả những gì Ta sẽ truyền cho ngươi. Trước mặt dân chúng, người đừng run sợ” (Gr 1,17). Chỉ với niềm tin mói có thể thấy được tất cả chiều kích lớn lao của sứ điệp Thiên Chúa. Niềm tin sẽ mỡ rộng nhãn quan và làm nền tảng đức ái, khiến con người có thể “vui khi thấy điều chân thật”(1Cr 13,6) phát xuất từ miệng Thiên Chúa.

Một thân phận:
Sứ mệnh và số mệnh đời tu luôn gắn liền với Lời Chúa. Lời Chúa luôn chất vấn và xoáy sâu vào lòng người. Theo bước chân Chúa Giêsu, rất nhiều người đã đi đến tận cùng trái đất để làm chứng cho Thiên Chúa và thậm chí là bỏ mạng vì Lời Chúa. Dù sống trong bao hiểm nguy, Giáo Hội không bao giờ lùi bước trước vai trò ngôn sứ. Nếu những miền đất đó đón nhận ngôn sứ, chắc chắn hoà bình đã ngự trị vì Lời ngôn sứ sẽ là sức mạnh nối kết con người với Thiên Chúa và với nhau.
Tu sĩ sống các lời khấn trong cộng đoàn tạo nên một thế giới khác trong lòng thế giới hiện đại. Họ không chỉ cố gắng sống khác biệt trong thế giới nhưng xây dựng một thế giới khác tạo nên chứng tá cho nước Thiên Chúa. Tuyên khấn là sự dấn thân cho thế giới. Sống các lời khấn không chỉ tạo nên một lối sống khác trong thế giới nhưng kiến tạo một thế giới khác.

Lời khấn khiết tịnh:
Sống khiết tịnh là việc thể hiện theo Chúa Giêsu vì Nước Trời. sống độc thân vì Nước Trời. Sự trống vắng tình cảm cho phép đời tu yêu thương nhiều người đặc biệt là người nghèo, bị bỏ rơi và bị loại trừ. Khiết tịnh của đời tu là loan báo tính ngôn sứ về nước Thiên Chúa ban ân sủng cho loài người. Trước khi là một quyết định của con người, độc thân là một quà tặng của Thiên Chúa xác định vị trí của tu sĩ trong Giáo Hội. Do đó, đây cũng là một ơn gọi. Chính Chúa Giêsu, Đấng đã gọi con người sống hình thức này và ban ơn để con người đi theo Ngài trong cách sống này. Sống sự sống độc thân theo Tin Mừng trong Giáo Hội biểu lộ tỏ tường sực mạnh vô song của ơn Chúa và sự hiện diện của nước Thiên Chúa đang ở giữa chúng ta. Đức trinh khiết theo Tin Mừng là một lời khuyên theo tính cách tích cực. Đó là một bậc sống có mục đích kết hiệp chúng ta với Chúa Giêsu và đưa chúng ta tới việc yêu mến và thờ phượng Chúa Cha trong Chúa Thánh Thần. Bổn phận của đời tu là tạo cho mình có một kỷ luật sống, quy hướng mọi khả năng tình cảm, ý chí và tình yêu Thiên Chúa vào việc phục vụ tha nhân. Tu sĩ cố gắng vươn mình lên khỏi những khuynh hướng hưởng dục về phần sinh lý trong con người ( những khuynh hướng này chỉ được phép thoa mản trong đời sống hôn nhân ). Vì vậy, đời tu phải biết trông cậy vào ơn Chúa và sống tình bác ái huynh đệ.



Lời khấn khó nghèo:
Đời tu ngày nay đang gặp nhiều thử thách do sự bén nhạy của con người trước những cảnh nghèo do tình trạng nghèo khổ gia tăng khủng khiếp. Bên cạnh đó còn có thách đố đến “ từ chủ nghĩa vật chất thèm khát chiếm hữu, dửng dưng với những nhu cầu và đau khổ của những người yếu đuối, cũng chẳng quan tâm đến những việc làm quân bình những tài nguyên thiên nhiên”1. Đứng trước những thách thức này, đời tu phải tìm về nguồn xuất phát lại từ Đức Kitô, là một con người hoàn toàn sống cuộc đời nghèo khó; Người sinh ra tại Bê Lem, làm một nghề khiêm tốn, sống một đời túng thiếu trong nhà Nadareth… Và cái nghèo của Chúa Giêsu được biểu lộ rõ nét nhất là cây thập giá. Chính vì thế mà Thánh Phaolô đã nói: “ Đức Giêsu Kitô, vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa” ( Pl 2,6 ), và “Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta đã có lòng quảng đại như thế nào: Người vốn giàu sang phú quý nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em”( 2Cr 8,9 ). Vì vậy, đời tu được mời gọi làm chứng cho Tin Mừng một cách mới mẽ và mạnh mẽ về sự từ bỏ và tiết độ, bằng một nếp sống huynh đệ với nét nỗi bật là đơn sơ và hiếu khách, cũng như làm gương cho những dửng dưng với nhu cầu của tha nhân. Chứng tá đó đương nhiên đi kèm theo một mối tình dành ưu tiên cho người nghèo, và tỏ ra một cách đặc biệt trong cách chia sẻ điều kiện sống với những cùng khốn nhất. Đời tu hôm nay đang sống trong nền “ kinh tế quà tặng ” qua lời khấn khó nghèo. Cộng đoàn tu sĩ nuôi dưỡng quan hệ đúng đắn với Thiên Chúa được diễn tả sự lệ thuộc qua sự quan phòng của Ngài. Hơn nữa, kinh tế quà tặng làm cho cộng đoàn có khả năng quảng đại đi đến với những người nghèo. Tu sĩ chọn lựa người nghèo không phải vì không muốn họ trở nên giàu có nhưng muốn thể hiện lòng nhân từ cua Thiên Chúa. Tu sĩ nhận thức rằng người nghèo về vật chất, tinh thần và thiêng liêng không chỉ là những người ăn xin mà là anh chị em của chính mình.
Trong bối cảnh như thế, sống chính trực với nền kinh tế quà tặng là một loan báo tính ngôn sứ về niềm hy vọng là chúng ta có thể loại bỏ sự nghèo đói trong thế hệ của chúng ta.

Lời khấn vâng phục:
Khi nói tới vâng phục là nói tới quyền bính và tới đời sống cộng đoàn. Thời xưa, vâng phục được hiểu như sự vâng phục mù quáng. Ngày xưa chỉ có bề trên là người ra lệnh, còn bề dưới phải tuân hành, dù cho sự tuân hành ấy đôi khi dẫn đến sự lệch lạc. Ngày xưa, những quyết định của bề trên phải được coi là ý Chúa. Vậy đức tuân phục thực chất là gì?
Trong Tin Mừng, Chúa Giêsu đã vâng phục Chúa Cha cách tuyệt đối, đây là khuôn mẫu của sự vâng phục nơi người tín hữu và gắn kết đời sống vâng phục trong lòng mến. Tuyên khấn vâng phục, người tu sĩ trước hết phải luôn lắng nghe tiêng Chúa, tìm kiếm ý định của Ngài trong thế giới. Cộng đoàn tu sĩ không chỉ là lắng nghe mà còn là đang tìm kiếm. Các tu sĩ sống lời khấn vâng phục trong cộng đoàn là những người ngang hàng, tự do chọn lựa đến với nhau không phải để sống đời sống hôn nhân để làm kinh tế nhưng vì tình yêu đối với Thiên Chúa. Đời tu mời gọi mọi người phục vụ lẫn nhau bằng cách bắt chước Chúa Giêsu, Đấng đã hy sinh mạng sống cho chúng ta và trong bữa tiệc ly Người đã để lại di chúc “anh em hãy làm việc này mà nhứ đên thầy”(Lc 22,9). Sống lời khấn vâng phục triệt để trong cộng đoàn là một chứng tá ngôn sứ về nước Thiên Chúa. Tuy nhiên, để sống vâng phục trong thế giới hôm nay quả là một thách đố đối với những ai sống đời tận hiến. Vì lạm dụng tự do, con người không thể phân biệt được đâu là ý Thiên Chúa. Họ đề cao tự do, coi tự do như là một quyền được làm bất cứ điều gì, miễn sao được sự thỏa thích, kể cả điều xấu. Thách đố đó còn được thể hiện qua việc hiện tượng số tu sĩ giảm sút trong các hội dòng, sự giảm sút về đức tin, sự tầm thường hóa đới sống đức tin. Đứng trước những thách đố này, đời tu được mời gọi hoán cải không ngừng để chiều kích ngôn sứ mang lấy một sinh lực mới. Do đó, qua việc sống vâng phục, tu sĩ chứng minh cho nhân loại thấy rằng vâng phục và tự do không mâu thuẫn với nhau, nhưng là con đường để chinh phục sự tự do chân chính.

Tính ngôn sứ của đời tu là một thách đố lớn đối với con người. Tuy nhiên, được Thiên Chúa mời gọi, tu sĩ sẳn sàng ra đi để chống lại những cản trở chống lại nước Thiên Chúa, chống lại những lầm lạc chính yếu liên quan đến sở hữu, tình cảm và quyền lực. Đời tu được mời gọi hội nhập chiều kích Tin Mừng và cuộc đấu tranh biến đổi xã hội bằng chính cuộc sống của mình. Để nhờ đó, con người ý thức được vai trò của mình là trở về với Thiên Chúa. Và qua đời sống của tu sĩ, mọi người ý thức được nước Thiên Chúa, thấy được việc hiến tế cứu độ của Chúa Giêsu xả thân vì phần phúc của con người và những chiều kích sâu thẳm của mầu nhiệm nước Thiên Chúa.

Thứ Sáu, 30 tháng 9, 2011

VIÊN NGỌC TRAI

Viên ngọc trai ẩn mình dưới đáy biển
Như người thợ lặn mò trai

Hồn tôi ơi! Hãy lặn sâu
Lặn sâu nữa và cứ kiên trì
Lần đầu chưa thấy gì đâu
Hãy lặn sâu như người mò đáy biển
Đừng bỏ cuộc và hãy kiên trì
Hãy lặn sâu, lặn sâu hơn nữa
Cứ tiếp tục tìm đi
Những người đứng trên bờ
Sẽ nhạo cười bạn đấy
Nhưng chớ có buồn phiền
Đừng đánh mất nhuệ khí
Hỡi người mò dáy biển
Viên ngọc quý ẩn mình
Dưới đáy lòng trùng dương
Vững niền tin, bạn sẽ thấy
Bao nhiêu điều ẩn khuất
Hãy lặn sâu hơn nữa
Hồn tôi hỡi! như người mò dáy biển
Hãy kiên trì tìm mãi thôi

Thứ Năm, 29 tháng 9, 2011

khôn ngoan

“Chúng tôi không sống theo lẽ khôn ngoan người đời,
nhưng theo ân sủng của Thiên Chúa.” (2Cr 2, 12).


Những nền văn hóa Đông phương đều lo tìm kiếm sự khôn ngoan. Sự khôn ngoan này nhằm mục đích thực tế là giúp con người cư xử thận trọng và khôn khéo để thành công trên đời. Điều đó bao hàm một suy tư về thế giới và cũng đưa đến một khởi thảo một nền luân lý, để rồi không thể thiếu liên lạc với tôn giáo. Vào thế kỷ VI ở Hy lạp, niềm suy tư nặng phần lý thuyết nên khôn ngoan biến thành triết lý. Như vậy bên cạnh một khoa học vừa phôi thai và những kỹ thuật đang phát triển, khôn ngoan là một yếu tố quan trọng của nền văn minh.
Trong mạc khải Thánh Kinh, Lời Chúa cũng mang hình thức khôn ngoan. Đó là sự kiện quan trọng nhưng cần phải giải thích đúng đắn. Sự kiện đó không có nghĩa là đến một giai đoạn phát triển nào đó, mạc khải sẽ biến dạng thành nhân bản thuyết. Sự khôn ngoan được linh ứng, cho dù nó bao hàm phần tinh hoa của khôn ngoan nhân loại, nhưng có một bản chất khác hẳn. Sự kiện này đã manh nha từ Cựu Ước, và được nổi bật trong Tân Ước[1].
Khôn ngoan nhân loại và khôn ngoan Thiên Chúa
Sách Các Vua cho thấy “Sự khôn ngoan của Salomon lớn hơn sự khôn ngoan của tất cả người Trung Đông và hơn cả sự khôn ngoan của Ai cập.” (1V 5, 9-14). Ý tưởng này nhằm đến tri thức cá nhân và cả nghệ thuật cai trị khéo léo của nhà vua. Nhưng đối với những người có lòng tin thì đó là hồng ân Thiên Chúa mà Salomon đã cầu xin được.
Đành rằng có thứ khôn ngoan này thì cũng có những thứ khôn ngoan khác. Nhưng khôn ngoan đích thực thì bởi Thiên Chúa, chính Ngài ban cho con người “một quả tim biết phân biệt lành dữ”(1V 3, 9). Nhưng rồi cũng như nguyên tổ, mọi người đều bị lôi cuốn tiếm đoạt quyền này của Thiên Chúa, dựa vào sức riêng của mình (x. Stk 3, 5). Đó là khôn ngoan lừa lọc và mưu mô của con rắn lôi cuốn họ theo (x. Stk 3, 1). Đó là khôn ngoan của các luật sĩ, của những kẻ có quyền bính, hành xử hoàn toàn theo tính cách phàm tục, theo nhãn giới riêng, theo nhận xét riêng mà các sứ ngôn đã từng cảnh cáo (x. Is 5, 21).
Sự kiện Giêrusalem sụp đổ đã xác nhận những lời cảnh cáo của các ngôn sứ, vì thế lòng kính sợ Thiên Chúa sẽ là nguyên tắc và thành tựu của khôn ngoan (x. Cn 9, 10). Sách Thánh vịnh cũng đã vang lên: “Kính sợ Chúa là đầu mối khôn ngoan.” (Tv 111, 10); và Sách Huấn ca cũng đã dạy: “Lòng kính sợ Đức Chúa là tuyệt đỉnh của khôn ngoan, mang lại bình an và sức khoẻ dồi dào.” (Hc 1, 18).
Người khôn ngoan trong Kinh Thánh trước tiên là người nhận thấy bàn tay quyền năng của Thiên Chúa trong thiên nhiên vạn vật và trong chính đời sống mình (x. G 36, 22-27; Hc 42, 15-43). Từ đó, họ là người thành thạo trong nghệ thuật sống đứng đắn; là người biết nhìn thế giới chung quanh với cặp mắt sáng suốt và không ảo tưởng; là người biết những bí ẩn và giới hạn của con người qua những niềm vui hay nỗi khổ (x. Cn 13, 12; Gs 7, 26); là người biết vạch ra qui luật cho mình là phải biết sống thận trọng, điều độ trong ước muốn, làm việc khiêm tốn, chừng mực, từ tốn, chân thành trong lời nói, v.v...
Sách thánh và các sứ ngôn cũng đã gợi cho họ những huấn giới về làm phúc bố thí (x. Hc 7, 32; Tb 4, 7-11); đức công chính (x. Cn 11, 1); yêu thương kẻ nghèo khó (x. Cn 14, 31). Vấn đề bất công, đau khổ, sự chết cũng sẽ được giải quyết trong niềm tin vào sự sống lại (x. Đn 12, 2...) và vào đời sống vĩnh cửu (x. Kn 5, 15).


Thiên Chúa, Đấng Khôn Ngoan
Sự khôn ngoan con người bắt nguồn từ Thiên Chúa. Ngài ban cho ai tùy ý, vì chính Ngài là Đấng Khôn Ngoan tuyệt hảo. Vì thế các tác giả Sách Thánh chiêm ngắm sự Khôn Ngoan Thiên Chúa như nguồn gốc sự khôn ngoan của họ. Đó là một thực tại thần linh đã có từ muôn thuở và sẽ còn mãi mãi (x. Cn 8, 22-26; Hc 24, 9). Sự khôn ngoan được nhân cách hóa, đã có mặt ngay trong cuộc sáng tạo (x. Cn 8, 27-31), và tiếp tục quan phòng hướng dẫn lịch sử (x. Kn 10, 1-11), bảo đảm ơn cứu độ cho những ai tiếp đón sự khôn ngoan và cũng chính là Thần Khí của Thiên Chúa (x. Kn 9, 17). Chính sự khôn ngoan tạo nên những người bạn của Thiên Chúa (x. Kn 7, 27tt). Sống mật thiết với khôn ngoan là sống mật thiết với chính Thiên Chúa.
Khi đồng hóa sự Khôn Ngoan với Đức Kitô, Tân Ước đã cho thấy khi liên kết với Đức Kitô, con người được thông phần vào sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa và thấy mình được sống mật thiết với Ngài. Đức Kitô chính là “sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa” (1Cor 1, 24.30). Trong Đức Kitô, Thiên Chúa đã tiền định cho chúng ta nên đồng hình đồng dạng với Con của Ngài (x. Rm 8, 29). Nguồn gốc sự khôn ngoan của chúng ta là như thế, nhưng nó còn tùy thuộc vào đời sống của mỗi người trong việc đón nhận và thấm nhập vào Đức Kitô đến mức độ nào.
Sự khôn ngoan nhiệm mầu của Thiên Chúa
Sự khôn ngoan đã được mạc khải một cách nghịch thường qua sự điên dại của Đức Kitô khi Ngài đã dùng Thập Giá để cứu thế gian (x.1Cor 1, 17-25). Qua đó chúng ta thấy được sự khôn ngoan tự nó là một cái gì của Thiên Chúa, bí nhiệm và tàng ẩn, mà trí khôn loài người không thể dò xét được (x. 1Cor 2,7tt; Rm 11, 33tt; Col 2, 3), và chỉ được thông ban cho những ai sẵn sàng vâng nghe Ngài (x.1Cor 2, 10-16; Ep 1, 17). Chỉ khi con người tội lỗi của chúng ta cùng chịu đóng đinh với sự khôn ngoan kiêu căng của mình thì mới được tái sinh vào đời sống mới của Đức Kitô, để biết luôn hành động trong sự khôn ngoan của Thiên Chúa dưới tác động của Thần Khí.
Sự khôn ngoan đó trước hết không phải là quy luật sống, nhưng là mạc khải về mầu nhiệm Thiên Chúa (1Cor, 2, 6...), là tột đỉnh của sự hiểu biết tôn giáo mà thánh Phaolô cầu xin Thiên Chúa ban cho các tín hữu (x. Col 1, 9), để nhờ đó họ có thể chỉ bảo cho nhau (x. Col 3, 16) nhờ Thần Khí (x.1Cor 2, 13). Từ đó, khía cạnh luân lý của sự khôn ngoan mới dàn trải ra trong đời sống hằng ngày của Kitô hữu (x. Ep 5, 15; Col 4, 5).
Không có sự khôn ngoan thì việc thực hành vững vàng các nhân đức luân lý như khiêm nhường, hiền lành, trong sạch, vâng lời... cũng sẽ héo mòn. Để được như vậy, chúng ta cần tập nhìn mọi sự diễn ra dưới sự hiện diện của Chúa, đúng như Chúa là tác giả. Với cái nhìn khôn ngoan này, mọi nhân đức sẽ triển nở tươi tốt để điểm tô một nhân cách toàn diện.
Khôn ngoan – đặc ân của Thánh Thần
Khôn ngoan là đặc ân quí giá nhất của Chúa Thánh Thần , vì đó là hoa quả riêng của đức ái, là kho tàng tuyệt hảo nhất mà người ta có thể chiếm hữu trong cuộc sống này. Điều đó bao gồm một sự xếp đặt của tâm trí chúng ta để nhìn xem và đánh giá mọi sự trong ánh sáng thần linh.
“Khôn ngoan” theo động từ tiếng La tinh là “sapere”, nghĩa là “nếm”, là thưởng thức hương vị của món ăn. Theo nghĩa bóng, người khôn ngoan là người biết hưởng nếm, biết thưởng thức hương vị sâu xa, mặn mà của cuộc sống mình, biết đi sâu vào thực trạng nội tâm của mình, biết khám phá vẻ đẹp chân tính để vượt lên lối sống tầm thường của thế gian. Từ đó, ta mới cảm được sự thú vị của khôn ngoan, là càng ngày càng thấu hiểu sâu xa hơn những mầu nhiệm tôn giáo. Bởi vậy, sự khôn ngoan được định nghĩa như “một đặc ân mà nó làm hoàn hảo đức ái, bởi có thể làm cho chúng ta thuộc về Thiên Chúa và những vật thần linh trong những nguyên lý tối hậu, và bởi ban cho chúng ta một hương vị thích thú nơi chúng”[2].
Sách Thánh Vịnh đã mời gọi chúng ta: “Hãy nếm thử và hãy nhìn coi, Chúa thiện hảo dường bao.” (Tv 33, 9). Đặc ân khôn ngoan không chỉ cho chúng ta nhìn thấy bằng ánh sáng của tâm trí, mà còn bằng đôi mắt của tâm hồn. Nó cho chúng ta khả năng kinh nghiệm để nếm thử và thưởng thức những sự vật thần linh.
Bởi đặc ân khôn ngoan như thế, Đức Maria đã chọn cuộc đời dâng hiến cho Thiên Chúa, vì cách nào đó Mu ẹ đã nhìn thấy ý định nhiệm mầu của Thiên Chúa trong chương trình sáng tạo và cứu chuộc của Ngài. Bởi đó, Mẹ đã quyết định “xin vâng” hoàn toàn để ý định của Chúa được hoàn tất nơi Mẹ, mà bất chấp những gì sẽ xẩy ra sau này. Bởi đó, Mẹ đã sống cuộc đời “xin vâng” một cách tuyệt đối để minh chứng rằng, mọi sự dưới vòm trời này chỉ có ý muốn của Thiên Chúa là khôn ngoan tuyệt hảo. Bởi đó, Mẹ cũng đã tuyên xưng lòng “xin vâng” một cách triệt để và anh hùng ngay dưới chân Thập giá Đức Kitô, để loan báo rằng, đó là mầu nhiệm cứu độ vô cùng khôn ngoan của Thiên Chúa mà thế gian không tài nào hiểu nổi, nhưng chỉ dành cho những ai bé nhỏ khiêm nhường. Thật tuyệt vời khi Đức Trinh Nữ Maria được gọi là “Tòa Khôn Ngoan”.
Khôn ngoan đích thực nơi chính mình
Để cho ơn khôn ngoan của Chúa có thể lan tỏa trên mọi lãnh vực của đời sống, trước tiên cần phải khui ra cho được những cảm nghĩ tiêu cực của mình. Phải phơi bày ra ánh sáng những cảm tưởng và động lực mờ ám đang tàng ẩn trong tiềm thức, luôn thúc đẩy ta suy nghĩ và hành động theo hướng tiêu cực. Tất cả mọi rối reng và bất ổn bên ngoài đều phát xuất từ chính tâm hồn mình. Đừng cố gắng xoay chuyển thực tại, hoàn cảnh hay người khác, vì đó là việc làm vô ích và dại dột. Thực tại không không hề có vấn đề. Vấn đề nằm trong thâm tâm của mình. Chính mình là vấn đề. Nếu lấy hết mọi người ra khỏi hành tinh này thì sự sống vẫn tiếp diễn ở đó, thiên nhiên vẫn tiếp tục đi con đường của nó với tất cả nét yêu kiều và sức mạnh của nó.
Vì thế, đừng bao giờ đồng hóa mình với những cảm nghĩ tiêu cực do mình chiết xuất ra từ những dữ kiện bên ngoài. Cần phân định giữa cái “tôi” chủ thể và cái “tôi” đối tượng. Mọi cảm tưởng phát sinh là do sự kiện bên ngoài cung cấp và lôi kéo, nó chẳng dính dáng gì đến cái “tôi” chủ thể, nên không được xác định bản ngã căn cơ của mình bằng những cảm nghĩ đó. Ảo tưởng và sai lầm phát sinh ở chỗ ta dùng những cảm nghĩ từ những dữ kiện để xác định con người hay thái độ của mình.
Có thể ở đây và lúc này có một nỗi chán chường hay những thương tổn. Cứ mặc kệ nó, nó tự động đến thì nó tự động đi. Sự hiện diện của chúng như thủy triều lên xuống, không ăn nhập gì đến hạnh phúc của cái “tôi” chủ thể, nên đừng để mình bị tác động và đẩy đưa theo sự kiện của cái “tôi” đối tượng. Cần phải biết nhận thức để tạo sự cách ly, không chập lại làm một giữa hai cái “tôi” đó, nếu không, ta sẽ bị động tâm và nao núng, gây nên cảm ứng bung xung vì đã đặt mình lệ thuộc vào sự kiện bên ngoài. Đó là trường hợp khi ta quá bận tâm về sự chấp nhận hay phi bác của người khác, mà đánh mất tự do và bản lãnh của mình.
Cái cám dỗ sai lầm thường xuyên của chúng ta là muốn lấy người khác làm thước đo giá trị bản thân mình, và như vậy là tự đặt mình vào tình trạng nô lệ nghiệt ngã, không còn một chút khôn ngoan nào. Vì thế, kinh Bhagavad Gita của Ấn giáo khuyên ta: “Hãy lăn xả vào giữa khói lửa của chiến trận, và hãy đặt cõi lòng mình nơi tòa sen của Thần Minh”.
Cứ phải tự tách mình ra khỏi sự kiện, đặt mình trong trạng thái tự do, thanh thoát, hồn nhiên và sinh động. Để được tự do, ta không cần phải làm gì cả, chỉ cần bỏ đi một cái gì đó thôi. Cũng vậy,“Người ta không đạt đến Thiên Chúa bằng việc bổ xung thêm cái gì vào linh hồn mình, nhưng là bằng việc bớt đi.” (Meister Eckhart). Trong quan hệ với mọi người cũng thế, “Không phải ta thấy dễ chịu khi thiên hạ tốt đẹp, nhưng thiên hạ tốt đẹp vì ta thấy dễ chịu.” (Anthony de Mello).
Khôn ngoan như thế đòi ta phải kiên quyết giữ vững lòng trí mình một cách thanh tịnh, để tạo sự bình tâm giữa những xáo trộn của mọi tình huống bên ngoài, đồng thời hướng lòng mình lên cao để đón nhận ánh sáng của chân lý, giúp cho tâm hồn vẫn ung dung triển nở những cảm nghĩ tích cực và những phong thái cao đẹp. Muốn thế, những tình cảm không bao giờ tìm cách đi trước lý trí, và những cảm xúc không bao giờ được lấn át lý lẽ. Nhờ vậy ta tránh được những bồng bột và kích động của bản năng khi đứng trước mọi tình thế, để bình thản nhận ra đâu là dấu chỉ của thánh ý Thiên Chúa, đó là tuyệt đỉnh của sự khôn ngoan.
Đức Gioan XXIII nói về người khôn ngoan
- “Khôn ngoan là người biết giữ một phần sự thật khi chưa tiện nói ra, miễn là sự thinh lặng đó không làm nhẹ giá hay gây sự hiểu lầm cho một phần sự thật được tiết lộ”.
- “Khôn ngoan là người biết đi đến mục đích mình đã lựa chọn bằng những phương pháp kiến hiệu để quyết định đúng và thi hành đúng.”
- “Khôn ngoan là người biết tiên đoán và đo lường mọi khó khăn trở ngại có thể xảy ra, biết chọn con đường vừa phải để không gặp trở ngại khó khăn quá lớn.”
- “Khôn ngoan là người khi đã nhắm mục đích tốt đẹp, lớn lao và cao cả, sẽ không lạc hướng, nhưng biết vượt mọi trở ngại để làm cho được việc một cách hoàn hảo.”
- “Khôn ngoan là người trong mọi vấn đề biết đâu là cái chính, không lẩn quẫn trong cái phụ; biết dồn hết toàn lực một cách liên tục để đi cho tới cùng đích một cách tốt đẹp.”
- “Khôn ngoan là người khi bắt đầu, đã biết dâng hiến và phó thác thành quả cho Chúa, dù có thất bại một phần hay hoàn toàn đi nữa thì họ vẫn an tâm vì đã làm đúng, và biết qui hướng tất cả theo ý Chúa, cho vinh quang cao cả của Chúa.”
Phẩm chất của đời sống khôn ngoan
Hạnh phúc và bình an của người khôn ngoan phát sinh từ sự ngay thẳng: “Khôn ngoan chỉ tìm thấy ở trong sự chân thật.” (Goethe); cũng như từ tâm hồn lương thiện và đời sống trong sáng:“Sự khôn ngoan không thể len lỏi vào đầu óc của kẻ thiếu ý hướng ngay lành.” (Latin Proverb).
Người khôn ngoan thật là người biết tôn trọng, yêu quí và luôn tìm kiếm chân giá trị của đời sống, do đó biết đánh giá cao những gì tốt lành và dẹp sang một bên những gì tầm thường. Chúa Giêsu cũng đã nêu cao tính cách khôn ngoan của cô Maria, khi cô biết chọn cho mình phần tốt nhất và chẳng ai có thể lấy đi được (x. Lc 10, 39-42). Từ đó, ta cũng thấy người khôn ngoan là người can đảm để chọn một tính cách, một lối sống mà không sợ kẻ khác dèm pha, chỉ trích; đồng thời cũng là người biết tận dụng mọi thời cơ để lắng nghe tiếng Chúa, Đấng đang muốn thông truyền cho mình sự khôn ngoan đích thực: một sự khôn ngoan không dựa trên quan niệm của người đời, “bởi vì điều cao trọng đối với người đời lại là điều ghê tởm trước mặt Thiên Chúa.” (Lc 16, 15).
Thánh Phaolô cũng hòa chung tâm tình đó: “Vì sự khôn ngoan đời này là sự điên rồ trước mặt Thiên Chúa...” (1Cr 3, 19). Khôn ngoan đích thực là sự hiểu biết Thiên Chúa muốn mạc khải cho những người khiêm tốn, bé mọn (x. Lc 10, 21). Thật vậy, “Kiêu hãnh đi liền với ô nhục, khôn ngoan ở với kẻ khiêm nhường.” (Cn 11, 2). Vì thế, “Ai đẹp lòng Thiên Chúa, thì Người ban cho trí khôn ngoan, sự hiểu biết và niềm vui.” (Gv 2, 26). Thánh Giacôbê đã kể ra những phẩm chất khôn ngoan do Chúa ban: “Đức khôn ngoan Chúa ban làm cho con người trở nên trước là thanh khiết, sau là hiếu hoà, khoan dung, mềm dẻo, đầy từ bi và sinh nhiều hoa thơm trái tốt, không thiên vị, cũng chẳng giả hình.” (Gc 3, 15-17).
Sự khôn ngoan của Thập Giá
Không thể tiến tới khôn ngoan sâu nhiệm nếu thiếu học hỏi và đào luyện mình ở trường đau khổ của Thập Giá Đức Kitô. Vì thế người khôn ngoan nhất là người biết tận dụng mọi khổ đau để được nên giống Đức Kitô và sống làm một với Ngài, để sự khôn ngoan của Ngài làm thành sự khôn ngoan của chính mình.
Thánh nữ Magarita thuật lại rằng, một hôm Chúa hiện ra với chị và nói: “Hai điều sau đây con muốn chọn điều nào: một là được khỏe mạnh, lòng trí luôn vui hưởng sự ngọt ngào và êm ái, được bề trên tín nhiệm, chị em quí mến, người ngoài cảm phục; hai là phải ốm đau bệnh tật, chịu bề trên thử thách, chị em khinh dể, luôn luôn cay đắng và tư bề khốn cực”. Nghe vậy, Magarita xao xuyến âu lo, sấp mình xuống than thở cùng Chúa: “Lạy Chúa, con chẳng dám chọn điều nào cả, nhưng điều nào làm đẹp lòng Chúa hơn thì xin Chúa chọn thay cho con”.
Chúa lại phán bảo cùng chị: “Ta chọn cho con, con đường Thánh giá, vì chỉ Thánh giá mới làm đẹp lòng Ta hơn cả, và chỉ ai yêu mến Thánh giá mới thực giống ta hoàn toàn...”. Cũng chính lúc ấy Chúa cho xem thấy những sự khốn khó của cả đời chị. Chị rùng mình kinh khiếp, âu lo cho số phận mai ngày không biết ra sao, đau khổ sẽ làm cho đời mình ra thế nào. Bấy giờ chị suy nghĩ: “Yêu ai thì trao tặng điều quí nhất cho người mình yêu. Chúa Giêsu sẽ ban Nước Thiên Đàng cho những kẻ Ngài yêu, nên chẳng còn gì quí hơn là Thánh giá”.
Từ ngày đó trở đi, sau khi viết tờ tường trình phổ biến về việc yêu mến Thánh Tâm Chúa, Magarita chịu biết bao nhiêu khốn khổ: bị Giáo quyền cho là cuồng tín và bị quỉ ám, nên một linh mục nọ đến làm phép trừ quỉ cho chị. Chị tâm sự: “Bấy giờ mọi người đồng tình làm khổ tôi, bêu xấu tôi, bạc đãi tôi...” Chị phải chịu đựng như thế trong suốt 20 năm trường, nhưng nhờ vậy việc tôn sùng Thánh Tâm Chúa Giêsu được phổ biến khắp nơi. Những đau khổ, khờ dại của chị Magarita ngày xưa, giờ đây đã biến thành khôn ngoan, vinh hiển trước tòa Chúa.
Thật ra, khi kết hiệp sâu xa với Chúa trong cầu nguyện là lúc Chúa xin ta, chứ không phải ta xin Chúa. Điều Chúa xin ta vẫn luôn là tình yêu cứu độ của Ngài, mà chỉ có thể cứu độ qua con đường Thập giá là hiến thân hy sinh chính bản thân mình. Hoa trái của sự khôn ngoan siêu vượt này chỉ một mình Chúa biết và thông tri cho những tâm hồn khiêm nhu bé mọn, là những người được ôm ấp trong trái tim yêu dấu của Chúa, để họ có sức mạnh uống cạn chén đắng linh thiêng mà cũng chỉ một mình họ hiểu ý nghĩa và giá trị siêu vượt của nó. Đó cũng là sự khôn ngoan của trái tim chan chứa tình yêu, vượt trên sự khôn ngoan của trí óc.

Lạy Chúa, con cảm tạ ơn Chúa vì mọi thử thách Chúa đã gởi đến cho con. Có những thử thách nặng nề đã làm con bàng hoàng kinh sợ, rã rời, chán ngán cuộc đời và con người. Có khi con đã muốn bỏ cuộc, nhưng rồi qua đó Chúa đã biến đổi cuộc đời con. Kinh nghiệm này cho con cảm nhận được tình yêu vô cùng khôn ngoan của Chúa, và dạy con trên bước đường đi tới hãy biết muốn điều Chúa muốn, biết yêu điều Chúa yêu, biết sống cho Chúa như Chúa đã sống cho con. Đó là sự khôn ngoan sâu thẳm nhất, vì sau mỗi thương đau là một đổi mới, cho con hưởng nếm được niềm vui khôn tả, và là một bảo đảm hạnh phúc của Chúa cho con.
Xin cho con biết nhìn xem mọi người, mọi vật và các biến cố như Chúa nhìn chúng trong một tinh thần khôn ngoan đích thật. Amen.

Lm Thái Nguyên

Thứ Ba, 20 tháng 9, 2011

NỖI BUỒN

Bán cho anh nỗi buồn đi cô gái
Thấy cô buồn-anh mua giúp- giá bao nhiêu???)
Tôi ngỡ ngàng nhìn người khách cuối chiều
(Anh chờ chút để tôi cân cái đã)

Tôi ái ngại, bởi nỗi buồn nặng quá
(Bán thế nào được khi vô giá hở anh???)
Khách nài nỉ (Khó dễ chi, xin em hãy bán nhanh,
Mẹ anh vừa mất... nên anh đây buồn lắm.)

Tôi cúi mặt, ôm nỗi buồn gậm nhấm
Quá mủi lòng, thôi chẳng bán cho không
Khách ngạc nhiên, rồi tỏ ý phật lòng
(Cảm ơn em, tôi không cần bố thí)

Khách bỏ đi tưởng nhầm tôi cố ý
Tôi vô tâm cũng lặng lẽ quay đi
Mấy năm liền nỗi buồn vẫn nằm ì
Chẳng người mua nên tôi đâu màng bán

Tôi u hoài mang niềm đau ai oán
Ngõ hồn mình chờ đợi bóng ai sang
Anh giờ này có nhớ kẻ bên đàng
Nỗi buồn tôi chợt nhiên thèm giải thích

Tháng tư về cho cơn mưa rả rích
Tôi cuộn mình trong cổ tích ngủ yên
Bỗng người lạ từ đâu tới hàn huyên
Thầm mong tôi bán nỗi buồn ngày trước

Người ấy bảo không thể nào quên được
Nỗi buồn mà cô gái muốn biếu cho


Tôi nghẹn ngào (xin anh hãy đắn đo,
Cái vô giá anh làm sao mua nổi)

Khách tươi cười (em đừng vội từ chối)
Cầm tay tôi người lồng chiếc nhẫn xinh
Mua nỗi buồn bằng tất cả chân thành
Giá phải trả là cuộc đời anh. Em ạ!

Tôi rưng lệ lòng tưng bừng rộn rã
Nỗi buồn bao năm tự hóa bướm bay đi
Sự thật đây rồi chẳng phải mơ gì
Tôi mềm nhũn trong tay anh hạnh phúc
28-4-2005
Nguồn: Trinhnu.net

Chủ Nhật, 18 tháng 9, 2011

Tìm kiếm

Khi nói đến tìm kiếm là gì có lẽ mỗi người chúng ta có những câu trả lời khác nhau. Vấn đề của tôi nêu ra là tìm kiếm cái gì và tìm kiếm như thế nào.


Trong cuộc sống thường ngày, chúng ta đều là những con người tìm kiếm. Chúng ta chỉ mong sao mình tìm thấy được cái mà mình đang tìm. Tôi xin nêu ra vài khía cạnh để cho độc giả có thể đối chiếu với bản thân mình.
Trước tiên là cuộc tìm kiếm đời sống hạnh phúc gia đình. Có lẽ mỗi người ai cũng mong sao cho gia đình mình luôn được hạnh phúc nhưng để đạt tới hạnh phúc thì còn là một vấn đề cần phải bàn tiếp. Vậy, hạnh phúc là gì? Như thế nào gọi là hạnh phúc?. Ngày nay, có thể nói rằng tiền bạc đang chi phối đời sống của nhiều người và con người chạy theo tiền bạc mà đánh mất đi căn tính của mình. Đánh mất đi con người thật của mình trong khi mình là nhưng con người “Đảng viên” của Xã Hội Chủ Nghĩa. Nhìn vào lịch sử Việt Nam trong những năm gần đây có hàng trăm  đảng viên là những người bước theo chân cụ Hồ đã tìm hạnh phúc của mình qua việc tham nhũng. Tôi thư hỏi: tại sao con người lại tham nhũng trong khi cuộc sống của mình đâu có đi ăn xin như những người ăn xin ngoài đường. Chưa hết, còn có mấy chú cảnh sát giao thông đứng đường nữa, cứ thấy chiếc xe nào phạm luật kể cả không phạm luật nếu “vui” thì cho qua con “buồn” thì thổi lại vói hình thức xử phạt tại chỗ với tờ biên lai “tự chế”. Tôi thầm nghĩ có phải họ “chết đói” không hay là đồng lương của họ không đủ để nuôi sống vợ con họ nên họ làm như vậy. Chính họ là những con người được học tập, được đào tạo đên nơi đên chốn thậm chí là mộ đảng viên được tiếp thu đầy đủ về tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Tại sao họ lại làm như vậy? đấy có phải là cái họ đang tìm kiếm không?
 Trở lại với cuộc tìm kiếm hạnh phúc gia đình, cũng có nhiều người vì gia đình mà hy sinh bản thân của mình. Có nhưỡng người luôn yeu thương các thành viên trong gia đình cho dù gia đình mình nghèo khổ đến đâu, cho dù họ không bao giờ tham nhũng. Trên khuôn măt họ bao giờ cũng nở nụ cười hạnh phúc. Vậy cuộc tìm kiếm của họ thành công chưa?
Đối với những người tin có sự sống đời sau, có lẽ cuộc tìm kiếm đích thực của họ chính là cái sự sống đó. Cách thức để được hưởng sự sống đó cũng không gì khó khăn cho lắm, vấn đề là chúng ta có dám sống với những cách thức đó không? Cách thức để sống chính là dành một tình yêu đặc biệt tới tát cả mọi người kể cả thù đich của ta, cách thức chính là quên đi cái tôi ích kỷ của mình để hạ mình xuống lắng nghe mọi người, cách thức chính là sống đúng với tư cách là một con người hiền lành, hồn nhiên trong trắng làm đẹp lòng mọi người. Chỉ như vậy chung ta mới thực sự là một con người tìm kiếm đúng với cái mình đang tìm. Đây là sự khôn ngoan đích thực mà chúng ta cần phải hướng tới. chắc chắn có nhiều người nói chúng ta dại dột hay ngu dốt nhưng điều đó không quan trọng, vấn đề là những việc mình sống và làm đều không thẹn với lòng