Thứ Bảy, 31 tháng 12, 2011

ĐẠO ĐỨC CỦA PLATON

Khi nói tới triết học, người ta không thể không nói tới giá trị đạo đức của nó, tức là tìm ra những tiêu chuẩn để sống và sống như thế nào cho đúng với giá trị “con người” của mình. Plato, một nhà triết học Hy Lạp cổ đại, chào đời tại Athens vào năm 472 TCN, là đệ tự ruột của Socrates, ông bị ảnh hưởng triết học của Socrates về cái phổ biến, cái chung làm cơ sở đạo đức. Qua đó, ông đã sớm tìm ra những tiêu chuẩn ấy để sống dựa vào các tiêu chuẩn của “linh hồn” và “xã hội”. Do đó, nền đạo đức này còn có ảnh hưởng sâu đậm đến các thế hệ sau như: trường phái khắc kỷ, tân Platon, Thánh Augustino…


Chúng ta đã biết chủ thuyết hoài nghi của các nhà ngụy biện đã đưa ra sự liên kết giữa tri thức và đạo đức. Họ tin rằng tri thức là tương đối và dẫn tới hệ quả là chúng ta không thể khám phá ra bất cứ tiêu chuẩn vững bền và phổ quát nào về đạo đức. Vì vậy, các nhà ngụy biện đã có những kết luận tất yếu về đạo đức, đó là: đạo đức được hình thành do ý muốn của cộng đồng và chỉ có giá trị và quyền uy đối với cộng đồng đó; đạo đức không có tính tự nhiên, người ta chỉ vâng phục vì áp lực của dư luận, và nếu các hành vi của họ được thực hiện chỗ riêng tư thì những người “tốt” cũng sẽ không tuân theo những quy luật đạo đức; bản chất của công lý là quyền lực hay công lý thuộc về kẻ mạnh; và đời sống tốt chính là đời sống lạc thú. Để chống lại học thuyết kinh khủng này của các nhà ngụy biện, Plato đã nêu lên khái niệm của Socrates “tri thức là đức hạnh” và khai triển khái niệm này bằng cách thêm vào hai yếu tố chính là: khái niệm về linh hồn và lý thuyết về đức hạnh như một chức năng của linh hồn.

Plato mô tả linh hồn gồm có ba phần: lý trí, tinh thần và dục vọng. Trước hết, có sự ý thức về một mục tiêu hay giá trị, đây là hành vi của lý trí. Kế đến có một lực thúc đẩy hành động, đó là tinh thần, ban đầu mang tính trung lập, nhưng rồi ngã theo đường của lý trí. Sau cùng, có ham muốn những điều về thân xác, đó là dục vọng. Như ông đã minh họa hình ảnh này trong quyển Phaedrus là người đánh xe có hai con ngựa kéo, bánh xe không thể đi đâu nếu không có hai con ngựa, vì vậy cả ba phải liên kết với nhau và làm việc chung với nhau để đạt các mục tiêu chung. Cũng thế đối với linh hồn con người, lý trí hoạt động cùng với tinh thần và dục vọng, và tác động trên chúng. Lý trí phải điều khiển tinh thần và dục vọng.

Theo Plato, linh hồn có hai phần: lý tính và phi lý tính. Phi lý tính gồm hai phần: tinh thần và dục vọng. Phần lý tính được tạo dựng bởi tạo hóa – linh hồn của vũ trụ; phi lý tính được tạo dựng bởi các thần linh. Phần phi lý tính là phần không hoàn hảo, nó kéo linh hồn rơi xuống nhập vào thân xác. Vì vậy, linh hồn muốn tìm về chỗ cũ của nó, nó phải hướng thượng. Chính vì thế mà đạo đức học của Plato là đi từ trên xuống mà mình phải bắt chước. Linh hồn có một bản chất bất trị và xấu nơi những thành phần phi lý tính của nó, nguyên nhân của cái ác đã tồn tại ngay từ tình trạng tiền hiện hữu của linh hồn.

Linh hồn là hoàn hảo theo bản tính. Khi linh hồn từ bỏ thế giới hình thức nhập vào thân xác, nó đi từ thế giới cái một sang thế giới của cái nhiều. Linh hồn trôi dạt giữa biển cả rối rắm của muôn vàn sự vật và chịu tác động của mọi thứ sai lạc do bản chất lừa dối của các sự vật. Trong thân xác linh hồn cảm nghiệm cảm giác ham muốn, lạc thú, đau đớn cũng như sợ hãi và tức giận. Linh hồn cũng cảm nhận được sự yêu thích với một loạt những sự vật đa dạng từ miếng ăn đơn sơ nhất đến nếm cảm sự ngọt ngào của tình yêu, chân lý, cái đẹp thuần túy và vĩnh cửu. Thân xác như một chướng ngại vật khó chịu đối với linh hồn, tinh thần và dục vọng. Khi nhập vào thân xác, sự hài hòa ban đầu của các phần khác nhau của linh hồn tiếp tục bị đảo lộn, trí thức trước kia bị bỏ quên mà tính trì truệ của thân xác như là một chướng ngại vật khó chịu làm cản trở sự phục hồi tri thức.

Vậy làm thế nào để phục hồi đạo đức đã mất ? Plato cho rằng: Lý trí phải dành lại quyền điều khiển các phần phi lý tính của bản ngã. Chỉ tri thức mới có khả năng tạo ra đức hạnh, bởi vì chính sự ngu dốt hay tri thức sai lạc đã tạo ra cái ác. Trí thức nằm sâu trong kí ức trí khôn. Những gì linh hồn biết trước kia bây giờ nhớ lại. Nó di chuyển từ bóng tối ra ánh sáng, từ mê muội sang hiểu biết. Phải có một tác nhân bên ngoài giúp linh hồn thức tỉnh, bắt linh hồn đứng dậy, quay lại… và vươn tới ánh sáng. Khi trí khôn đi từ mức độ thấp lên cao, nó dần nhớ lại những gì nó đã biết trước đây và cần thiết phải biết để đạt sự hòa hợp nội tâm. Sự phát triển đạo đức song song với tri thức của người ấy, vì sự tăng trưởng tri thức làm gia tăng tình yêu đối với chân, thiện và mỹ (cái đẹp). Đức hạnh là tri thức, vì đó là hành trình đi tìm kiếm khôn ngoan để biết hành động nào là đúng thật sự, tri thức đích thực về những hậu quả của mọi hành vi, đức hạnh là sự hoàn thành một chức năng độc đáo.

Như thế, đức hạnh như sự hoàn thành chức năng. Đời sống tốt lành là đới sống có sự hài hòa nội tâm, an lạc và hạnh phúc. Lý trí có một chức năng và chỉ tốt khi nó hạnh động đúng. Dục vọng có chừng mực, không lấn lướt lý chí, quân bình trong lạc thú và ước muốn sẽ dẫn tới đức hạnh tiết độ. Ý chí thuộc phần tinh thần của linh hồn, giữ giới hạn và chừng mực, tránh hành động nông nỗi, trở thành sức mạnh đáng tin cậy dẫn tới đức hạnh can đảm. Lý trí không để mình bị khuấy động bởi những dục vọng dẫn tới đức hạnh khôn ngoan. Tiết độ là sự kiểm soát hợp lý các dục vọng. Can đảm là sự sai khiến hợp lý của tinh thần. Mỗi phần hoàn thành chức năng chuyên biệt của mình sẽ dẫn tới đực hạnh công bằng. Công bằng là đức hạnh tổng hợp, nó phản ánh sự đạt tới an lạc hài hòa nội tâm của con người. Điều này chỉ đạt được khi mỗi phần của linh hồn hoàn thành đúng chức năng của mình. Như vậy, công bằng là sự hài hòa bên trong linh hồn giữa ba quan năng: lý trí, tinh thần và dục vọng. Công bằng là tạo điều kiện cho con người hoàn thành chức năng của mình.

Có ba giai cấp nhà nước là sự mở rộng của ba thành phần linh hồn, gồm: triết gia-vua (vàng), giai cấp những người gìn giữ an ninh (bạc) và giai cấp thương gia cùng với các thợ thủ công (đồng). Vậy muốn có một xã hội tốt lành thì phải tạo ra một xã hội công bằng, nhưng trong xã hội có người có khả năng và có người không có khả năng. Công bằng trong xã hội chính là tạo điều kiện cho con người hoàn thành chức năng của mình. “Công bằng khi thể hiện ra đời sống chính trị thành quốc gia, cũng là sự hài hòa giữa ba thành phần xã hội: triết gia-vua, giai cấp những người gìn giữ an ninh và giai cấp thương gia cùng các thợ thủ công. Và công bằng là sự đồng thuận hoàn hảo, sự hài hòa trên dưới của cả ba: những them muốn (dục vọng) lệ thuộc vào tâm hồn (tinh thần) và tâm hồn vào lý trí, cũng như công bằng xã hội là sự hài hòa trên dưới của ba giai cấp cần thiết cho nhau: những người cai trị những chiến sĩ hay những người giữ an ninh và những người thợ thủ công làm công việc sản xuất” .

Triết học của Plato là một hệ thống triết hoc suy tâm khách quan lớn, và đầu tiên trong lịch sự triết học đã đạt đến sự hoàn chỉnh, nhất quán và triệt đệ, đặc biệt về quan niệm đạo đức. Chính nền đạo đức được xây dựng dựa trên cơ sở học thuyết linh hồn mà các trường phái sau này như: khắc kỷ, tân Plato hay thánh Augustino đã lấy làm “tiêu chuẩn” đạo đức cho chính mình.

Trường phái khắc kỷ - Epitectus
Trường phái này có quan niệm rằng con người hạnh phúc là con người biết kiềm chế các nhu cầu và ước muốn của mình. Con người có thể lãnh hội được chân lý nhờ giác quan. Luân lý là điều quan trọng nhất của con người để có được hạnh phúc. Họ cũng cho rằng hạnh phúc là chấp nhận định mệnh và làm chủ ý chí một cách dũng cảm: “tôi không tránh được cái chết nhưng lẽ nào tôi không tránh được nỗi sợ chết hay sao, tôi không thay đổi được số phận nhưng lẽ nào tôi không thay đổi được thái độ của tôi trước cái chết hay sao”. Con người có quyền lựa chọn thái độ sống trước mọi biến cố xảy ra.

Trường phái tân Platon - Plontinus
Plotinus chính là người kết hợp giữa thần bí và Thượng Đế và đề cập đến sự cứu rỗi con người. Khác với các trường phái đi trước (nghiêng về mô tả linh hồn), Plotinus đi tìm bản chất và sự cứu rỗi của linh hồn. Đối với ông triết học là nhắc nhở con người về nguồn gốc và cứu cánh của linh hồn, là giải thoát con người. Theo Plotinus, linh hồn nhập vào thân xác và bị đày đọa trong thân xác. Thượng Đế được vì như ánh sáng của mặt trời; càng xa Thượng Đế thì càng trở nên tối tăm. Thân xác là phần xa nhất của mặt trời. Dựa vào lý luận này chúng ta nhận biết được cái ác trong thế giới. Vì vậy, con người cần phải trở lại với ánh sáng của mặt trời để được giải thoát khỏi cái ác và sự dữ.

Thánh Augustino
Thật vậy, được xem như người khai mở kỷ nguyên “Trung đại”, Augustino đón nhận những ý tưởng then chốt của Plato là thế giới được mô phỏng theo khuôn mẫu hoàn hảo; con người là tạo vật hữu hạn đam mê những cái vô hạn. Con người là tội lỗi, yếu đuối cho nên đánh mất ân sủng với Thiên Chúa vì vậy con người cần phải trở về với Thiên Chúa để được cứu rỗi. Bên cạnh đó, con người có niềm vui, hạnh phúc khi sống theo sự tự do trong sự thật của Thiên Chúa, dưới ánh sáng con đường nội tâm bên trong.

Tư tưởng của Platon còn có ảnh hưởng đến các dòng tu sau này. Khi một hội dòng hay dòng tu có xu hướng đi xuống do tranh chấp, khủng hoảng hay cách sống không phù hợp thì hội dòng hay dòng tu đó lại trở về với ý niệm, tư tưởng ban đầu để canh tân. Nếu vượt qua thì họ tồn tại và phát triển; nếu không vượt qua thì sẽ bị tan rã.

Nền triết học của Plato đã để lại cho các thế hệ sau có một hướng đi mới và khai mở ra con đường để con người tim kiếm hạnh phúc. Đó chính là biết làm chủ chính bản thân của mình, lý trí phải làm chủ và điều khiển tinh thần và dục vọng. Con người muốn được giải thoát thì phải trở về với thời điểm ban đầu, tức là xuất phát lại ý tưởng ban đầu. Đạo đức học Plato giúp con người khám phá ra một cái gì đó siêu việt và thiện hảo mà con người luôn khao khát. Cái muốn vươn lên đó chính là sự thao thức của linh hồn, vì con người hay tạo vật chỉ là bản sao của cái có sẵn tuyệt đối; hay nối cách khác tạo vật hữu hạn luôn khao khát cái vô hạn như Chúa Giêsu mời gọi: “anh em hãy trở nên hoàn thiện, như cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện”(Mt 5,48).

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét